Mùng 3 tháng 5 nhuần năm Quí-Dậu
Hai vợ chồng anh Tư LÝ xin thờ

     CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG
     NGÔ-TIÊN-ÔNG
     Đệ-tử LÝ và HUYỀN.
     Lột khăn. Phục cân.
     Hai con nghe Thầy dạy.

Diệu lý Cao-Đài sắc,
Huyền-Thiên Thượng-Đế minh.
Ba năm Đạo-LÝ vẹn gìn,
Thân phàm HUYỀN mật một mình ai hay,
Đảnh lư khí tụ non đoài,
Mừng công hai trẻ hiệp tài ra thi.
Non Tiên tuy Lão hồi qui,
Nhưng còn vịn trẻ kịp thì theo Cha.
Giữ trong Bát-quái ta-bà,
Cung ly sẵn chực, Thiên-tòa an ngôi.
Hai con giữ phép phục hồi,
Tòng còn đợi gió, cọp ngồi chưa an.
Vậy khuyên hai trẻ canh tàn,
Gà reo là lúc khiếu quang chực đò.
Giữ trong đèo cả quanh co,
Tam hiệp tiếp khí, lần mò tụ thiên.
Non sông đã trọn một giềng,
Còn lo chút đấy là yên hoàn-toàn.
Nầy con! Bước nhặt, bước khoan,
Đò linh giữ mối, ngôi CÀN theo lên.
Ngự xe đã sẵn chực bền,
Tòng còn chờ chút trăng lên mới thành.
Năm năm quăng kiến đề danh,
Tiên Phật hiệp giúp cho nhành đậu hoa.
Bảy thu an thế ta-bà,
Mừng con hai trẻ sen tòa tạc tên.

                  ******

KHUYẾN LUYỆN-KHÍ HỪỜN-HƯ

Luyện chơn-khí đắc bồi mạng-thể,
Dụng công-phu đừng trễ ngày giờ,
Thất-hườn công dụng thiên cơ,
Thử tri chuyển vận, mà nhờ thân sanh. 7.
Tại Hà-đồ hỏa hành thổ-vị,
Động-tịnh nguyên hà thủy lưỡng đồ,
Phản tùy động-tịnh phục-tô,
Qui hồi vạn-khí qui vô linh-thần. 8.
Thất-Hườn đạo lời phân hạ thủ,
Chuyển pháp luân qui tựu khí-tinh,
Tựu-thần ngưng khí hòa-bình,
Qui nguyên bổn-giác hồi minh chơn-truyền. 9.
Dụng công phản Hậu-Thiên lục-Chuyển,
Phản Tiên-Thiên vận chuyển Ngũ-Hành,
Lục quan phân rõ Tam-sanh,
Sơ-Tam tại (Tý) lập thành Huyền công !... 10.
Hòa Sơ cửu Kê-Long phục đoạn,
Tại Lạc-Thơ, sanh mạng phản Đồ,
Sơ-sanh, thể-luyện trúc-cơ,
Thủy-nguyên sanh Mộc Hà-Đồ Huyền-Công! 11.
Thể dược (Sửu), Kiến-Long Cửu-Nhị,
Long tại Điền hỏa thủy khắc sanh,
Lạc-Thơ thủy hỏa khắc hành,
Nghịch-hành sanh khắc khắc sanh thuận hành. 12.
Thập Ngũ (Hà) Mộc sanh hóa khí,
Lạc-Thơ (Đồ) Hỏa thị khắc Kim,
Huyền-công lưu phản khá tìm,
Tịch-dương chi Tý “Cửu-Tam” quái hào. 13.
Đủ Tam-dương một mầu khai-thái,
Hậu Tam-âm phân giải khá tường,
Thập Ngũ “túc khí Tam-dương”,
Tam-dương khai-thái lập đường luyện-phanh. 14.
Hỏa thọ hào Kim hành đắc vị,
Lục-thập hào quái vị hiệp đồng,
Tam-Bá phong có bào trong,
Thất-thập-Nhị-khí Huyền công gom vào. 15.
Nghịch Tả chuyển diên hào hoán-tượng,
Thủy khắc sanh hỏa chưởng hườn liên,
Luyện (liên) cho kỵ về nguyên,
Tam-huê tựu-đảnh huyền-huyền vận nuôi. 16.

Chú giải: Đạo Đạo bởi vô-cực hư-không mà sanh ra Thái-Cực.
Thái-Cực mới sanh Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi mới sanh Tứ-Tượng.
Tứ-Tượng là “Lão-Dương (Càn) và Lão-Âm (Khôn), Thiếu-Dương (Ly),                          và Thiếu-Âm (Khảm)”.
Tứ-Tượng mới sanh Bát-quái-Tiên-Thiên, là “Càn, Khôn, Khảm, Ly, Chấn,                  Tốn, Cấn, Đoài”;
khi Bát-Quái đã thành rồi, thì Khí mới phân ra Ngũ-khí, bởi đó mà sanh ra vạn-vật.
Tức là “Nhứt-bổn tán vạn-thù”, thì là Tử vậy. Mà Tử là Thuận-hành.
Hậu-thiên Bát-Quái; là “Khảm, Ly, Chấn, Đoài, Càn, Khôn, Tốn, Cấn”.
Mà là Ngũ-Ngươn đã hóa Ngũ-Trược rồi, là Lục-âm thuần-toàn,
mà về Bát-quái Hậu-Thiên dĩ chung; mà chưng là con người tuyệt mạng đó.
Vậy kẻ tu luyện phải dụng công phản-bổn hườn-nguyên, liên hồi vận khí,
đồng qui nhứt-bổn ! mới là “Chơn-qui Hư-vô”.
Ấy là Đạo, mà là Vạn-thù qui ƣ nhứt-Bổn”.

Trở Lại Thư Viện Chiếu Minh