Tuất thời, Đàn lệ Ngày 01 Tháng 09 Năm Tân Hợi (1971) KỶ NIỆM ĐỆ TỨ THẬP CHU NIÊN
NGÀY HẠ THỦ CÔNG PHU CỦA BÙI HÀ THANH Đồng Tử: Ngọc Ánh Hồng Xuất khẩu
Thi
Vần vũ VÂN phong cuốn mịt trời
Cảnh ngoài HÀ tất nội tâm nơi
Ngoài trong ĐỒNG một không sai khác
Sanh động TỬ yên khá nhiệm lời.
Tiểu Thánh chào chư Thiên Mạng, chào chư phúc tử linh căn. Giờ nay Tiểu Thánh được lịnh giáng báo tin có Đức Giáo Chủ Ngôi Hai lâm đàn, chư hiền thành tâm thủ lễ tiếp nghinh. Tiểu Thánh hộ đàn xuất ngoại. Thăng.
Thi NGÔI báu chờ ai chốn Điện Huỳnh HAI đường siêu đọa khó tường minh GIÁO truyền tùng thính hành trau luyện CHỦ - Tể càn khôn mới nể tình
Thầy các con! Thầy mừng chung các trẻ. Giờ lành nay Thầy tá bút đôi câu trước để mừng ngày Tứ thập chu niên của Hà Thanh luyện Đạo, sau đôi lời khuyên nhủ các con. Thầy miễn lễ các con an tọa. (dâng lễ)
Thi
Chứng lòng mỗi trẻ đã dày công
Tưởng niệm Thánh Tiên góp tấc lòng
Hương xạ chân thành bay thấu đến
Chứng tri tá bút trẻ hành thông. Thi
Thấy trẻ ngán ngao cõi thế trần
Chẳng ham danh lợi chẳng vùi thân
Biết căn thế tục là hư ảo
Có đó, rồi đây cũng mất phần. Thi
Bao điều nhìn thấy các con ơi!
Trước mặt biết bao thảm trạng đời
Nghèo khổ đã đành cho số kiếp
Giàu sang cũng khổ, khổ con ơi! Thi
Thử nghĩ lại xem rõ ngọn nguồn (liễu đắc)
Bạc vàng chung đỉnh có tròn vuông
Rồi đây khi phải lìa dương thế
Liệu có còn chăng, nghĩ cũng buồn! Thi
Nói chi đến cảnh Tử cùng Sinh
Hiện sống trần gian cũng khổ mình
Danh lợi đua chen vinh lẫn nhục
Sang hèn, voi, chó chịu linh đinh Thi
Nhưng nếu các con chịu ngoái nhìn
Thật lòng muốn thấy cảnh quang minh
Vững bền muôn thuở cho Đời Sống
Cảnh lạc Tiên Bang hãy cố nhìn
Tuy nó vô vi nhưng vĩnh cửu
Thật Chân Nguyên Lý mới là Vinh
Làm sao trở lại Linh Quang Đại
Ngai vị ngày xưa chốn Điện Huỳnh. Thi
Còn chi vui thú thắng Cung Tiên
Cảnh lạc đào nguyên ấy thoát miền
Dứt khổ trần gian về lạc cảnh
Khỏi sầu mai sớm khỏi chinh nghiêng
Sớm chiều vui thú cùng mây gió
Thưởng nguyệt xem hoa chẳng chút phiền
Chẳng thấy những gì ngang trái cả
Chỉ còn hỷ lạc chốn Thần Tiên. Thi (Hỏi Hà Thanh)
Bốn chục niên dư luyện Đạo GIÀ
Làm tròn sứ mạng của Trời Cha
Hai điều rất khó, con xong MỘT
Còn Một thời Con phải thế TA. Thi
Ngày nay tá bút điểm công trò
Hết lòng tế độ phước ân cho
Vậy trò ưu khuyết cần trình tấu
Thầy lắng tai nghe tiếng của trò.
Bạch Sư Phụ: Ngày kỷ niệm của con, Thầy từ bi ngự bút, con rất vui mừng thỏa mãn nguyện và trình tấu:
Hai việc nặng nề khó khăn của đời con là Tự Giác, Giác Tha cũng là chánh kỷ, hóa nhân mà con đã lãnh khi ra đi lìa nguồn cội. Như đã bạch trình ngày này năm rồi: Việc nội công hoằng pháp vừa xong, Thầy xuống lịnh dạy con mở rộng việc giáo nhơn hồi bổn. Thời gian qua, con đã chứng minh sự tận tụy với trọng trách như thế nào, con khỏi nói lại, Thầy dư biết vì đã thực tại và hiện hữu nơi con rồi.
Hôm nay về phần ứng dụng, xử sự đối ngoại con cảm thấy:
Giờ đây, con đã dại ngu khờ
Lộn xộn cuộc đời, vẫn tĩnh bơ
Chưa hẳn ngông cuồng còn biết biết
Biết mà chẳng sợ, vững trơ trơ
Éo le thảm thiết muôn vàn khổ
Hỗn loạn điêu linh, mắt lấp ngơ
Tự tại an nhiên, tâm xích tử (con đỏ)
Lạnh lùng cố giữ chữ nhơn sơ.
Con cam phận ngu khờ, an thời xử thuận. Hơn nữa nhỏ đã khôn qua thì già phải lú lại, cái mạnh khỏe của xuân thời chẳng còn, tất cả nhựa sống tập trung nuôi trái. Thân thịt mòn dần, cảm thấy chẳng còn đủ sức để thi hành sứ mạng đúng mức theo ý muốn. Bạch Thầy!
Thi
Như thế! Thầy đâu dám bảo khờ
Nên Thầy vội vã chẳng làm ngơ
Bao nhiêu bận rộn, Thầy đều gác (bất động)
Vì trẻ tuyết sương vẫn đứng trơ (con Thầy đồng một)
Cảm động khi nghe con bạch tấu (cảm tất ứng)
Từ bi mến lắm khó làm ngơ
Ban thêm cho trẻ nhiều ân điển (đại hoá)
Sức khỏe điểm tô, kẻo xác xơ (thái hoá)
Bạch Thầy: Được gia ban ân điển và điểm tô sức khỏe thì còn dám mong mỏi gì hơn, đã đủ hai yếu tố cần thiết là Thần Khí và Thể Lực rồi. Về phần thứ hai, con đã dốc toàn năng cho tròn bổn phận để trả nợ Pháp. Tuy nhiên điều quan trọng là Chơn thật, ở nội tâm, Thiên tử là Trời con, đắc ngai vị, thay thế Trời Cha để điều khiển cho Đạo Hành nói là Thế Thiên Hành Đạo, còn giúp Linh căn phúc tử bên ngoài là phụ thuộc. Con cảm thấy việc thực hành Đạo Pháp cho đến nơi đến chốn để đạt cứu cánh, hồi quy nguyên thể là quá sức hầu hết nhơn loại, đến như Khổng Tử là Đại Thánh nhân, là Vạn Thế Sư Biểu của trần nhơn mà còn phải mệt đuối khi phải bay theo Lão Tử, tượng trưng cho Thiên Đạo và đến nửa chừng không trung phải teo cánh còi lông rồi rơi rụng xuống đất cam vui hưởng địa vị Nhơn Sư của thế gian chi đạo ...
Đối với phận sự Giác tha, con phô bày ưu khuyết của con vì Thích Ca, Khưu Tổ còn ngán huống là con:
Cảm thấy càng già, cận đứa điên
Dường như Tâm Tánh luống triền miên
Phóng ra ứng dụng nhiều tri thức
Thâu lại yên nơi giải xích xiềng
Sánh trẻ sơ sinh nhìn ngọc, đá
Thau, vàng xem một, chẳng chia riêng
Thế mà Sư Phụ trao quyền trọn
Bí Pháp dìu người đáo Bổn Nguyên *********
Bản nguyên thâm diệu vốn Chơn Thường
Tài trí đủ đầy khó liệu phương
Hà huống già nua thêm lẫn lộ
Làm sao kham nổi, cái Vô Lường
Hay quên ngày tháng, luôn tên tuổi
Chẳng nhớ trước sau, chỉnh một đường
Giàu cũng biếng ham, nghèo chẳng sợ
Ngông cuồng! Mấy kẻ thích noi gương. Thi
Ai dám bảo rằng: con đã điên?
Nhưng con phải liệu, chớ triền miên
Đừng nên xa lánh đoàn chiên dại
Lũ trẻ còn đang bị xích xiềng
Chìa khóa con gìn, mau mở khóa
Đứa nào hữu phước hưởng ân thiên
Còn ai vô phước không tìm đến
Khuyên nhủ dắt dìu chớ tách riêng!
Bạch Sư Phụ: Ngày kỷ niệm, Thầy dành cho con nhiều thời giờ để dạy dỗ, thế cũng đủ đầy lắm rồi, Thầy Con hội Ý nhau. Thầy nghe tiếng con, Con lắng nghe Thầy, thượng hạ tương liên, hòa mình nhứt khí, Ý hiệp Tâm đầu, Con Thầy chung khối, Con thì muốn:
Êm tai Minh Chúa chơi thiềm nguyệt
Khỏe giấc Trần Đoàn dạo Gió Thu
Để rồi cợt cười Bành Tổ chết yểu ...
Thầy bảo phải lo liệu, chớ có triền miên cho hợp lý:
Trở về Chơn Như
Pháp lại “chẳng tịnh”.
Thưa vâng! Con đã rõ lý Vô Trụ, Thanh tịnh sáng soi cho đủ Thể Dụng. Như con đã thường nói: Tự Tánh là Sáng thì Soi, không như vậy là không đặng, là mất Tự nhiên tánh, nhưng cũng chẳng nghĩ là Có soi rọi cho ai, với mục đích gì.
Nhựt Chiếu, Nguyệt Minh, Ánh Sáng đại diện cho Minh Chiếu nói là CON thế cho Thầy để trực tiếp với đoàn chiên, mới có thực dụng chớ tự Bản Thể của Trời Trăng nào có rời vị trí của chính mình, cọ sát tiếp xúc vạn vật.
Có duyên với Ánh sáng thì thụ hưởng ân Thiên, xích xiềng vô minh được mở khóa, vô phần, trốn núp vào bụi rậm như loài cú vọ, rất sợ ban ngày làm sao soi rọi được:
“ Nhựt Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ.”
Tuy nhiên với Bác ái bao la của Đạo Tình, không loại bỏ, tách rời, vẫn gióng chuông cảnh tĩnh may ra lời khuyến nhủ tiếng gọi của tình thương lọt vào tai, mò ra khỏi nơi đen tối.
Mọi sự việc, con tuyệt đối thuận tùng Thiên Ý.
Vậy Hà Thanh còn chi cần trình tấu, bạch tường!
Bạch Sư Phụ: Mải mê say nghe lời vàng tiếng ngọc, con quên mất dự tính nhờ Thầy nhắc mới nhớ, đàn rồi, Thổ Địa dụng ý khêu lên, đo lường tri thức của mầm non đáng chú ý, đáng làm gương cho tuổi trẻ là
Trần Văn Đực mà con đã mến thương ban cho danh từ “con gà Cao Lãnh” .
Theo như đã hứa, giờ đây con xin Thầy cho phép con đổi tên Đực lại là ĐỨC.
Lành thay, lành thay! Chẳng những thế, Thầy còn thêm hai chữ nữa là Huệ Minh Đức.
Theo ý Thầy thì chưa tiết lộ “điều ấy” bây giờ nhưng vô tình con đã khơi động.
Chỉ như thế cũng thấy rằng Sự Thông Công giữa Con và Thầy.
Thầy định vào đệ nhị chu niên, Thầy sẽ cho biết một ít con trong hàng môn sinh của Thầy hiện tại nhưng nay con đã nói rồi Thầy cũng hoan hỷ ban cho.
Từ nay Trần Văn Đực sẽ được Thánh danh là HUỆ MINH ĐỨC.
Thi
Gian khổ TRẦN gian chẳng nệ nài
Luyện trau VĂN tự một không hai
Hết lòng ĐỰC đã gìn tâm luyện
Khoán Cố chí PHÁP thân vững mãi hoài
Tâm Hữu phước DANH truyền lưu hậu thế
Lý chơn HUỆ chiếu thấu cung mây
Từ nay MINH mẫn soi đường đạo
Sẽ lập ĐỨC ân trở lại Thầy.
Bạch: Thật là một đại ân huệ mà con không đoán trước được vì con xin có Một, Thầy lại đại hỷ ban cho Ba, như Chúa Jêsus đã nói: “Xin áo vắn, Ta cho luôn cái áo dài”. Còn gì nở mặt rạng mày cho con hơn nữa, biết lấy chi đền đáp cho cân xứng. Thầy lại tỏ ra cho biết ý con cũng là ý Thầy, đã Thông Thiên hượt Địa. Riêng bài thi cho Đức, con thấy thêm điều nhận thức của con không sai suyển, rất hữu lý khi đinh ninh rằng nó xứng đáng cho con quan tâm, khẳng định đó là một Ngôi Sao Sáng đầy vinh quang ở mai hậu. Điều đặc biệt ngoại lệ là lần thứ nhất Thầy ban “Pháp danh” cho một Môn Đồ Đại Thừa của Chiếu Minh Đàn này mà Thánh ngôn xác nhận đúng với thực chất.
Ngày trước nếu ló mòi xin Pháp danh, cầu phong chức sắc là bị quở nặng vì hễ đã ban ra là không lấy lại đặng: “Nếu ngày kia các con sa ngã rồi Thầy phải làm sao đây với Pháp danh mà chính Thầy đã cho ấy. Đã là Pháp phải là Thực Thể muôn đời bất biến, chẳng đồng với pháp danh chức sắc của ngoại giáo, hữu danh mà vô thực, rồi chấp nơi phù hiệu giả tạm để tranh nhau địa vị, gây rối rắm vô lường.
Khởi điểm đời tu của con, có Trần Minh Cơ là Kiến Đức Thiên Quân, nay đến giai đoạn chót được Thầy lựa cho Trần Văn Đực cũng là Huệ Minh Đức, đặc biệt có một không hai như Thầy đã nói.
Đã xong việc đổi tên, con trình luôn: Ngày trước Thầy cho con hai chữ kỷ niệm là MINH TIÊN và có dạy ngày sau sẽ rõ ý nghĩa của nó. Con hỏi kỹ lại MINH TIÊN hay MINH TUYÊN để con hiểu cho đúng lý.
Thầy hoan hỷ chỉ rành, chữ đó là MINH TIÊN với ý nghĩa đơn thuần là sáng tỏ tiên gia. Chắc con cũng đã thấy rõ việc làm của con hiện tại đã đúng với danh nghĩa Thầy trao cho ngày xưa chớ?
Bạch: Con thấy rõ lắm, có Đèn ắt sáng, không đèn ắt tối, do Tâm Đăng Minh Chiếu phục ngôi Kiền, con thấy chẳng sót mảy may gì trong Nhà Tiên, Chùa Phật của chính con và đem ra ứng dụng khi cần đến. Thật là lạ lùng không sao nói được…!
Thi
Nhín ít thời gian xuống điện tiền
Mừng con luyện Đạo đã hoàn nguyên
Mừng con dìu dẫn nhiều sinh chúng
Mừng thấy ngày mai vẫn vững yên
Giờ phải xa con về cựu vị
Giã từ đàn nội trở về Tiên
Các con khuya sớm siêng tu luyện
Như thế mới mong được phỉ nguyền.
Các con nghe sắc lịnh: Đàn kỳ tới ngưng đàn Chiếu Minh một kỳ để các con hành hóa Sa Đéc. Hành hóa đoàn gồm Thượng Lưu Thanh, Dũng Kim Quang, Ngọc Ánh Hồng cùng Hà Thanh Sư Trưởng. Ngoài ra ai muốn tháp tùng cũng đặng, Thầy không cấm. Hành hóa đoàn sẽ thiết lập đàn cơ tại Sa Đéc vào Tuất thời sơ nhứt nhựt thập ngoạt. Các con hiểu tường chăng? (Bạch hiểu).
Các con nghe tiếp lịnh: Bãi đàn 10 phút, tái lập Dũng Kim Quang thủ cơ, Ngọc Ánh Hồng đọc giả.
Ngâm
Mãn giờ từ giã các con
Trở về Thiên cảnh điển son phi đằng. TÁI CẦU Thi BÙI ngùi nhìn thấy cảnh nghiêng chinh SANH tử “bổn thân” khó thể gìn CHÂU báu bao nhiêu không chuộc được GIÁNG thăng nhị nẻo lắm điêu linh.
Tiểu đệ chào chư huynh tỷ, chào chư đạo hữu đàn trung. Giờ nay Tiểu Thánh giáng đàn với đôi điều mật thiết nhủ khuyên. Vậy mời chư hiền an tọa.
Thi
Nghiêm nghị đôi câu giữ dạ mình
Để không, các trẻ nó lờn khinh
Bảo rằng Chú Sáu sao kỳ quá
Cứ mãi cợt đùa e nó khinh.
Điển ký ngưng bút nghe Tiểu Thánh, nếu có câu nào viết không kịp cứ bạch trình đừng lo ngại rồi bỏ trống, nếu sau không có, bình lại e bất tiện. Vậy điển ký tiếp.
Thi
Trước hết đôi câu dạy trẻ thơ
Những ai chăm chú chẳng làm ngơ
Đây lời chỉ bảo nghe cho rõ
Tất cả nam nhi hãy sẵn chờ. Thi
Họa lại bốn câu của ngã phân
Trong đời tứ khổ chốn dương trần
Thứ nào khổ nhứt xin cho biết
Thi phú văn xuôi hãy liệu thân.
Vậy trước hết Chú hỏi trò Chi. Chú nhắc lại Tứ Khổ là Sinh, Lão, Bịnh, Tử,
cháu cho biết trong bốn thứ đó, thứ nào là khổ nhứt. Cháu hãy chọn đi. Bạch: Tử là khổ nhứt. Tại sao?
Xác thân có sanh là có tử, không hữu dụng được nó để nó mất đi trong khi chưa thực hành Đạo Pháp thì muôn đời chịu vạn khổ, nên con cho nó là khổ nhứt.
Chú cho phép cháu an tọa. Tiếp đến trò Đức, trò cho biết trong tứ khổ, thứ nào khổ nhứt. Ở đây Tiểu Thánh gọi Huệ Minh Đức. Bạch: Tử là khổ nhứt, nhưng kéo dài kiếp sống nơi thế gian để chịu thêm cái khổ của bịnh lão thì sanh cũng khổ ...
Cười, cười! Sao trò lại giải nghĩa mâu thuẫn như thế. Trò bảo kéo dài kiếp sống nơi thế gian là khổ, sao lại bảo Tử là khổ. Hay là trò lại bảo rằng kéo dài kiếp sống thế gian là một cái khổ, thà chết đi là một cái khổ. Trò xác nhận lại xem! Bạch: Đứng trên lập trường Bất Nhứt của Nhị nguyên, không so đi đến kết luận dứt khoát, không có cái Nhứt được. Cái khổ nhứt của người này chưa ắt là khổ nhứt của người kia, vui sướng nhứt của kẻ này, chưa hẳn là vui sướng nhứt của kẻ khác, mà còn mâu thuẫn trái lại nữa, cái gì cũng có bề mặt và bề trái cả. Hiện giờ cho nó là khổ nhứt rồi mai đây biết đâu nó sẽ biến thành khổ nhị, hoặc vui nhứt không chừng. Con biết cái lộn xộn của nó do luật biến thiên nhưng không giải đúng được vì khi nãy con đặt sai Nguyên Lý, phải vượt ra cái vòng lẩn quẩn mới kết luận nổi.
Hoan hỷ, hoan hỷ! Tiểu Thánh cho phép trò an tọa. Tiếp đến Tiểu đệ mời huynh Tám Kiên. Xin hiền huynh cho biết trong tứ khổ, thứ nào khổ nhứt. Bạch: Bị sa vào biển khổ thì toàn là khổ, toàn là nước mặn, một tánh chất như nhau.
Tiểu đệ hỏi hiền huynh rằng trong tứ khổ, là sinh, lão, bịnh, tử, cái nào là khổ nhứt? Hiền huynh thấy thế nào? Bạch: Đã biết trần gian là khổ cho nên tôi mới lo tu, trường chay 40 năm, 15 năm tu luyện để cố ra khỏi vòng tứ khổ. Tôi luận theo tướng mà nói thì sanh là khổ nhứt.
Vậy hiền huynh cho biết tại sao sinh ra là khổ nhứt.
Tại là nguyên nhân, đầu mối mới nảy ra cái bịnh, lão, tử khổ. Vừa lọt lòng Mẹ, phát lên tiếng khóc
“khổ ạ” nhưng lại được bao nhiêu cái vui cười đón tiếp reo mừng của thân nhơn.
Đó là cái khởi điểm của luật mâu thuẫn: khổ vui hiệp một.
Cười, cười! Như thế cũng tạm tạm đi. Vậy mời huynh an tọa.
Tiếp đến Tiểu Thánh mời hiền Minh Hóa nói lên ý kiến. Bạch: Đáng lo sợ nhứt là sanh khổ. Tôi xin chia ra hai điểm: người thế gian và người tu, tìm cách xuất thế.v.v
Thi
Minh Hóa bạch trình chí lý thay
Người đời lao khổ suốt năm dài
Nguyên nhân là thế, là Sinh đó
Bởi có sinh ra, mới khổ dai. Thi
Tá bút đôi câu để chỉ phân
Lý Chơn học hiểu rõ “Nguồn ân”
Tiến tu bước đạo thêm bền vững
Chúc các hiền nhân chóng thoát trần
Mãn điển lai hồi nơi cựu vị
Giã từ đàn nội rút phân thân
Chư hiền khuya sớm lo tu niệm
Vững chí ngày sau sẽ khỏe thân.
Vậy chư phận sự tiếp cầu có Hàn Tương Tử tá cơ, Tiểu Thánh từ giã chung. Thăng TIẾP CẦU
Thi
Cạn lẽ HÀ xin mới được vào
Thật là TIÊN Thánh khổ làm sao
Chẳng hề CÔ thế mà thương xót
Chỉ biết GIÁNG đàn nam dạy mau Hựu
Mau dạy nam nhi hết mọi điều
Mà còn tiếp tục để thêm kêu
Sao không nhìn thấy người bên Nữ
Chẳng một lời khuyên, vẫn bấy nhiêu.
Tiên Cô chào chư Thiên Mạng, chào chư nam nữ chung đàn. Hiền tỷ mừng chung các đệ muội. Đáng lý ra thì Hà Tiên Cô không giáng bút nhưng vì thấy sự chênh lệch vô cùng nên hết lời năn nỉ với Hàn Tương Tử Tiên gia để được tá cơ đôi vị biết rõ Hàn Tương Tử khi tá cơ cũng chỉ lo dạy nam phái mà thôi. Vậy Tiên Cô mời chư hiền an tọa.
Thi
Mừng chung nam nữ trước đàn tiền
Mừng cả những lòng đối Thánh Tiên
Vẫn biết tu thân nhờ hậu kiếp
Nhưng mừng những vị có căn tiên. Thi
Chẳng phải Tiên Cô quên phái nam
Nhưng vì khi nãy đã tròn kham Minh Y đã dạy đà đầy đủ
Vậy tới nữ lưu khá luận đàm Thi
Sơ Nhứt, Ba đàn thiết lập ra
Dạy cho nam phái cả nguyên ba
Sao không chia một cho bên nữ
Bộ tính Nữ lưu chẳng quý đa! Thi
Đáng lẽ Tiên Cô sẽ dạy nhiều
Nhưng vì giờ ít chỉ bao nhiêu
Nhiệm phần Tương Tử còn đang đợi
Như thế cũng vơi được ít nhiều
Khi khác sẽ bàn thêm Đạo Đức
Bây giờ xin kiếu chỉ bao nhiêu
Nhưng còn ân huệ dành cho nữ
Các muội nghe phân một ít nhiều.
Vậy chư Tỷ Muội nữ phái có điều chi cần bạch tấu Tiên Cô hoan hỷ chỉ tường.
(Hỏi ba lần bên phái nữ có bạch hỏi gì chăng, không ai lên tiếng)
Thi
Chứng lòng nữ phái đã dâng cho
Hoan hỷ phước ban tận các trò
Từ giã trung đàn nam lẫn nữ
Lai hồi Bồng đảo ngự Sen To
Chư hiền tiếp cầu Hàn Tương Tử, Từ giã chung. Thăng.
Thi HÀN nhiệt chưa tường vội nổi sân TƯƠNG dưa muốn vỡ tại tâm trần TỬ sinh là trọng mà không kể GIÁNG bút trần gian lại phải Sân. Hựu
Giận chi, chưa rõ Cội nguồn sinh
Vậy chớ những khi dạy tất tình
Có cả Nữ Nam hay chỉ Nữ
Sao Nam chẳng giận, vẫn làm thinh
Nực cười Chuyện nhỏ, không lường nổi
Như thế Chuyện to phải thất kinh
Quả thật nữ nhơn, lòng chẳng quảng (đại)
Chưa chi hờn giận khổ riêng mình. Thi
Khi nãy nếu không nhín phút giây
Nào êm cho được tấm thân này
Nhịn nhường đôi phút cho yên chuyện
Báo hại thời giờ mất tại đây. Thi
Đôi câu cũng đủ phận khuyên trần
Ôn cố giữ gìn những LÝ chân
Lời ít, nghiệm suy hay thấm thía
Còn hơn nhiều quá, khó mà phân. Thi
Mãn điển giã từ nam nữ chung
Trở về Hải đảo dạ thung dung
Mây trong, nước lặng, TRĂNG soi sáng
Từ giã đàn tiền đáo Điện trung.
Thăng
HỌC TẬP PHÁP Ý:
Không thể nói hết, tôi hé mở, nhắc sơ cho các bạn để phát minh đầy đủ vì đã có vốn sẵn, đã ý thức Lý Đại Thừa Vô Vi Đạo.
Đầu tiên, Thầy giáng dạy, tiêu biểu cho Thái Cực Đại Linh Quang Nguyên Thỉ, sau phân hoá ra ba trò con là Tam Thân của Nhứt Tự Tánh. Càn đã lìa ngôi, Ly thay thế, Hà Đồ biến Lạc Thơ:
1. Minh Y đến trước, tượng trưng cho phần Chánh dương, cái gạch liền phía trên.
2. Hà Tiên Cô, phần Âm kế tiếp, cái gạch ngang đứt đoạn.
3. Tương Tử đến sau, phần tà dương, gạch liền ở dưới.
Lý Đạo là vậy: Nhứt Dương- Nhứt ÂM, Nhứt Âm-Nhứt Dương thay đổi nhau vận hành cái CƠ ĐẠO (tá cơ bút).
Nếu giữ nguyên Ba đàn dành hết cho Nam thì là Tam liên của Càn là độc dương, làm sao sanh hóa, là trái Sanh Lý. Vì thế bạn đã hiểu tại sao báo tin Hàn Tương Tử giáng mà Hà Tiên Cô nhập vô sần sượng cự nự, trách cứ Tương Tử không biết điều, Tiên gia gì kỳ vậy!
Thật là Tiên Thánh khổ làm sao
Chẳng hề Cô thế mà thương xót
Chỉ biết Giáng đàn NAM dạy mau
Chẳng thương xót đến phận Cô đơn này, không cho xen vào cộng tác, ta chịu Cô Âm thì sao đủ yếu tố thành Nhà Tiên được vì phải do Thiếu Dương-Thiếu Âm hiệp nhau mới nên kia mà. Chấp nhứt, chỉ biết có Nam mà thôi, như vậy là quạnh hiu buồn tẻ, chênh lệch vô cùng. Ta phải năn nỉ, o bế hết lời mới chịu cho tá cơ, chung hiệp cho cái máy SINH HOẠT ...
Dĩ nhiên Tương Tử phải nhường nhịn chấp thuận, đó là lẽ phải, là Chơn Lý. Phần Dương là Minh Y đã rốt thì đến phiên Âm là Tiên Cô xuất hiện. Âm hết nhiệm phần, Dương lại ra mắt. Hàn Tương Tử đến sau chót là vậy, đủ ba đàn. Làm sao cưỡng nổi cái bánh xe phép: hết sáng là tối, hết tối đến sáng, cái máy tuần hườn của Cơ tạo. Bạn thấy chưa?
Dụng ý rất hay, đừng tưởng Tiên non còn nóng nảy, con gái hỗn ẩu, tánh chẳng quảng đại, bụng tép hẹp hòi của nữ lưu như Tương Tử đã trả đũa. Phải hòa nhau theo Đạo Tình, không chia ly phân rẽ.
Bóng Nhựt Nguyệt vần xoay ngày tháng
Tiếng sấm vang mưa thuận gió hòa
Một Hàn, một Thử lại qua
Đó thiệt Tình Đạo chan hòa nhân gian NAM chỗ đặt ngôi Càn Dương vị NỮ gọi là Khôn, Lý Âm Dương
Cảm giao biến hóa khôn lường
Phải chăng Cơ Đạo biểu dương nhiệm mầu? ...
Đừng chấp cơ bút mà bỏ rơi Cơ Đạo. Dẹp lời, quên danh xưng, đừng chấp SỰ để thấu LÝ:
Lời ít, nghiệm suy, hay thấm thía
Còn hơn, nhiều quá khó mà phân ...
Càn Khôn giao cảm biến thành LY KHẢM
Thiếu Dương : Âm trên Dương
Thiếu Âm : Dương trên Âm dưới
Thiếu Dương-Thiếu Âm đâu cật chung lưng là ( ) LY, có nghĩa là lìa nhau, xoay lưng ngoảnh mặt, một mặt ngó lên, một mặt dòm xuống là sáng tỏ, là Minh Chiếu, trên thấy được Trời, dưới soi rõ Đất.
Thiếu Âm-Thiếu Dương chung mặt, bụng ngực hiệp nhau. Dương sấp, Âm ngửa là KHẢM, có nghĩa là cẩn khảm sâu vào nhau. Mặt úp vào, đưa lưng ra (khảm) là vô minh đen tối, mù trời mù đất, chẳng thấy biết gì hết, Dương bị Âm bao bọc, chôn sâu vào lòng đất.
Bạn đã rõ Lý Vô Vi của Đạo Tình và không nên để vướng phải Tình Đời của hữu hình cơ đạo rồi kẹt vào Tứ khổ do Tâm sanh, tà niệm dấy lên, lửa dục bừng cao, nữ nam xung đột, đun đẩy xăng củi, chọi nhau ạch đụi, cọp rồng vật lộn, nhà cửa tan tành, ngọc nát vàng phai, nguồn sống cháy rụi. Rồi do cực động sanh tịnh, âm dương mới hòa để sanh Thủy, tưới tắt lửa lòng. Qua cơn “mây mưa” trời long đất lở, nghiêng ngửa Càn Khôn, lửa, nước, gió, đất hợp nhau thành một hình hài giả tạm. Việc Nam Nữ xung hòa như trên theo phàm pháp, Thánh kinh gọi là Con Trời (Israel) hành hình CHÚA trên thập tự giá , Thánh giáo nói: Các con nạp Thầy cho Quỷ phân thây v.v...
Cái máy biến sanh: Thái Cực sanh Lưỡng Nghi biến Tứ Tượng, rời Kinh Đô chạy ra biên ngoại, Tâm Thổ thể loạn sanh tứ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa để cộng thành Bát Quái, rồi thiên biến vạn hóa như đàn trước đã giải.
Các bạn đứng trên lập trường Tứ Tượng của Nhị Nguyên, làm sao giải nổi Tứ Chánh Khổ, làm sao quyết định cái nào là khổ nhứt, sống với tâm đã biến tướng, thế nào tròn kham với Lý Bất Nhị của Nguyên Thể Vô Vi. Riêng chấp vòng ngoài của Hậu Thiên Lạc Thơ bỏ rơi vòng Tiên Thiên Hà Đồ bởi Thiên Hữu, Lìa Vô, lệ thuộc tam Tâm tứ Tướng thấy có Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai, mắc vào Tứ Khổ của sắc thân, theo lẽ sống tạm của phàm nhơn, mất hẳn cái Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã, Chơn tịnh của Chơn nhơn do Tam Thân, Tứ Trí cung cấp.
Biết đặng lẽ sống trường tồn, thấy có Một Thực Tại vô cùng, Chơn thường bất biến. Nhưng cái biến thiên chỉ là trạng thái giả hợp, tụ rồi tan của tạp khí như phù vân bào ảnh. Các bạn chấp một bên của đối pháp, theo “Khuyết tâm” nhận thức có phần Hữu thiếu phần Vô, làm sao đi đến kết luận tuyệt đối của Vô Pháp là không Hữu, không Vô, như Tâm kinh bổ khuyết đã chỉ ... nải chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố!
Bạn nói bên này, tôi nói bên kia, bạn nói bên kia, tôi nhảy qua bên này để bạn rõ cái ở giữa, đó là những phản thuyết uyên thâm của Triết Lý Đạo.
Tôi đề cử một vài thí dụ:
1. Khi Thầy hỏi Tư Hoa về lục dục thất tình do đâu ra và phải diệt hay chẳng diệt? Nó trả lời, phải tiêu diệt Thập tam ma mới tiến bước được, Thầy vẫn khen là phải, vì đứng trên quan niệm nhị thừa là vậy, không làm khác hơn được.
Nếu là tôi, tôi sẽ nói ngược lại: “tại sao phải diệt, tôi lại phải giúp nó hùng cường thêm vì chúng nó là Con Cưng, là tướng giỏi trò hay của tôi mà. Không có chúng nó lấy ai giúp tôi đến Tây Phương hồi Cố Quốc!
Tam Tạng đã thuyết minh:
Nhờ căn Đức Trọng nên thâu được
Tánh quỷ mất đi, đạo cố trì
Về đến Tây Phương nhờ Tử Đệ
Nếu không, khó đặng phép hồi quy
Thì ra là Quỷ, nhưng là Phật
Quỷ Phật khác chăng, ai rõ chi?
2. Minh Hóa đã khẳng định SANH là khổ nhứt. Minh Y vẫn chấp nhận là chí lý:
“Người đời” lao khổ suốt năm dài
Nguyên nhân là thế, là SINH đó
Bởi có sinh ra, mới khổ dai.
Bạn để ý kỹ lưỡng từ chữ. Với lập trường của người đời là đúng, chớ với Chơn nhơn thì trái hẳn.
Nguyên nhân của người đời là Hữu tình mà Sanh nên phải Hữu tử, hữu bịnh, hữu lão, hữu khổ là duyên trần. Cái bản lai của sinh tử là Thức Thần là Vọng Tâm.
Thuận theo nhơn dục mà sanh, đó là nhơn vi. Nghịch sanh theo Thiên Lý, đây là Thiên tạo, với Chơn Đạo càng sanh nhiều càng tốt, càng vui với nguồn Trí Huệ vô lượng vô biên, đâu phải chịu hạn lượng trong muôn vàn khổ của Giả Hữu mà phải ghê sợ lẽ Sanh.
Phải lìa sanh diệt, trở về nguồn gốc Vô Sanh để hưởng thụ Niết Bàn Cực Lạc như Thầy đã minh định:
Sớm chiều vui thú cùng “mây gió”
Thưởng nguyệt xem hoa chẳng chút phiền
Chẳng thấy những gì ngang trái cả
Chỉ còn hỷ lạc chốn Thần Tiên ...
Muốn được thế, các bạn nên triệt để tuân hành Thánh giáo, giữ vững tinh thần, dũng mãnh tiến bước và nhứt là kiên tâm vô bờ bến để hưởng ngày vinh quang được Thầy đón tiếp trong vòng tay, mừng đứa con đã hoàn nguyên Đại khối.
Điều đáng chú ý là sự việc diễn ra giữa Hàn Tương Tử và Hà Tiên Cô, tiêu biểu cho Thiếu dương, thiếu âm, mầm non của Đạo.
Đạo có chơn có giả, Lý Sự có ngoài trong. Vô là Chơn, Hữu là Giả.
1. Thiếu Âm Thiếu Dương hòa nhau theo Vô Vi Đạo là gầy dựng căn cơ của Chơn tạo hóa, đó là gả cưới nhau Trong Đạo giữa con cháu.
2. Nam Nữ, hữu hình, sanh tâm hiệp nhau theo phàm pháp là sa vào giả tạo, điều Thiên Chúa đã cấm theo giáo điều, giáo luật: “Không được gã cưới ngoại đạo”. Không nên hiểu lầm lý nội, ngoại. Bề trên sắp đặt có đủ vai trò, đủ đào kép làm duyên cớ để luận đạo. Tôi nương theo đó mà giãi bày, phân tách thẳng thắn để hiểu chung chớ chẳng cố ý nhắm riêng vào cá nhân nào hết. Phải quấy, tốt xấu, hay dở, thành hoại v.v... đều chứa đựng trong bầu hư không, trời đất không loại bỏ phần tử nào hết.
Ba trường hợp của mầm non, mỗi phần tử chiếm một vị trí: 1. Trần Đực đã biến thành Đức mà vượt lên như Diên Phi (diều bay) 2. Ngọc Ánh Hồng còn đang tại ranh giới 3. Dương Đức, cấm đầu xuống như ngư dước, thay hình đổi vóc, hóa ra DƯƠNG ĐỰC do sự xen vào gây rối, “nổi sân” của “Lạc Hồng” làm cho tương dưa đổ vỡ tại tâm trần, khiến Minh Hóa là anh ruột của Đức xác nhận Sinh là khổ nhứt, đáng sợ nhứt vì đã chẳng còn Dương Minh mà đã “Vô Minh Hóa”.
Đúng vậy! Phải chịu khổ, chịu chết là vì có sanh, nhào vô bể khổ. Để cho phần tà âm xen vào, củi bị ướt át, lửa yếu sức, người tu luyện phải mất thì giờ như Tương Tử đã nói: Báo hại thời giờ mất tại đây.
(Tiên đàn, Tâm đạo) Nhưng biết đặng thì cũng không sao vì đó là tự nhiên phải có.
Nó dấy động lên, khêu khích, mình phải:
Khi nãy nếu không nhín phút giây
Nào êm cho được tấm thân này
Nhịn nhường đôi phút cho êm chuyện ....
“Chạy nó đi, chịu thua đi” đừng phùng xòe “chịu chơi” mà gãy cựa, còi lông, đổ máu mang thương với nó, nữ kê tác quái mà! Thổ Địa là “bợm nhậu” mà còn mô tả khi “món ngon kề miệng”:
Lợn kia chéo cẳng con Cò
Để bên chảo nước thọc giò phỏng đi
Nếu bỏ mất thịt thì cũng uổng
Địa muốn đưa vào uống nhậu chơi
Nhưng còn e phạm luật trời
Bởi chưng giới sát thêm thời phải răn
Tưởng chi chút, nay ăn mai nhịn
Được giỗ ngon, mà nhín bữa này
Ngon một bữa, đọa trăm ngày
Chi bằng thư thả hoài hoài ai ơi! ...
Đàn nay diễn tả rất đầy đủ để môn đồ rõ sanh môn, tử hộ.
Hãy nghiệm suy kỹ lưỡng sẽ Tri thức là BIẾT vì khôn cũng chết mà dại cũng chết kia mà.
Khôn, dại là chỉ cái tương đối là sanh diệt.
Hiểu biết là tuyệt đối, là sống không chết, Mê muội dại khờ, chết đã đành. Đến như khôn, trường hợp của Đức, Lạc rồi cũng chết, hoặc ít ra cũng phải mất một hạn kỳ 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn do đã đái vất vào bàn tay của Phật. Từ trước đến giờ, bao nhiêu người tu luyện sa ngã, bị thủy quái giết chết tại Lưu Sa Hà đều do không hiểu biết mà ra.
Vì thế, Thầy thường nhắc nhở phải lo học tập Lý Đại Thừa trước khi lên đường hành pháp. Hiểu biết rồi dốc lòng làm theo, dù có rủi ro bị đại nạn như Tôn Ngộ Không chết giấc tại Khô Tòng Giản do lửa yêu của Hồng Hài thì cũng vẫn hồi sinh và tiếp tục con đường đã vạch sẵn. Chúa Yêu có mạnh bằng trời cũng không thể đánh bại lòng “kiên quyết”. Lòng mến đạo chống lại mọi khó khăn và mạnh hơn tất cả chướng ngại như Tôn Ngộ Không vừa sống lại đã rên lên: “Thầy ôi! Lão Tôn rủi ro quá!”
Kẻ đại căn, đầy lòng kiên quyết mới thắng tất cả khó khăn. Đá có thể bị đập nát, nhưng không thể làm nhai nát chất rắn rỏi của đá. Son có thể nghiền thành bột, nhưng không thể làm phai chất đỏ của son.
Có thể vì một phút giao động nào đó, mặt trăng biến mất đi. Cũng có thể vì một buổi âm u, nền trời vân vũ, ta tưởng chừng như không thể thay mặt trời hoặc không còn có mặt trời nữa. Sau đó biển lòng lắng xuống, mây mù tan đi, ta thấy mình đã lầm. Trăng vẫn soi tỏ mặt hồ phẳng, mặt trời vẫn có đó “Chân thể” vẫn hiện hữu mãi mãi. Khó khăn làm cho con đường kéo dài thêm ra, thay vì ba năm đến Tây Phương, đoàn Tây Du thỉnh kinh phải mười bốn năm mới hồi cố quốc. Có hề gì đâu! Đường dài, gót chân chai thêm một tí, tóc bạc thêm một chút là chuyện tự nhiên của đường Đạo.
Nếu tóc đã bạc mà đường vẫn còn dài thì cầu đã bắt, đà sẵn có, cứ tiếp tục tiến bước ở ngày mai, sớm muộn gì cũng đạt mục tiêu đã nhắm.
Tôi không chủ trương “tuần tự nhi tiến” để làm nhục nhuệ khí của những tinh thần dũng mãnh và giúp thêm duyên cớ cho tánh trì trí khoan nẩy nở, tôi muốn liên tưởng đến những đợt sóng, lớp sau liền lớp trước, bao nhiêu đợt sóng qua đi mà nước còn, bản thể mênh mông của bể HƯ KHÔNG còn mãi mãi.
Không lạc quan cũng chẳng bi quan, vật vong vật trợ là Chơn Lý, là thành trì tin yêu của Đức Tín trong Tâm Hỏa, sáng suốt trên mắt, đuốc huệ rọi đàng, điềm tĩnh đi tới. Với điềm tĩnh thanh tịnh sáng soi, ta sẽ thành công trên đường tìm Phật.
Tôi tin chắc như thế và giữa cảnh mịt mù, đầy gian khổ này, tôi xin gởi niềm phấn khởi không bao giờ cạn đến những linh căn có Đại Hùng Đại Lực.