Tiểu Sử

Đức Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh

(1905-1985)

A- Về phần đời:

Ngài xuất thân từ giai cấp trung lưu, sinh năm 1905 Giáp Thìn, tại làng Mỹ Thuuận, Tổng An Trường, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, (nay là xã Thuận An-huyện Bình Minh- tỉnh Vĩnh Long).

Con của Ngài Bùi Quang Huy đắc vị Huệ Mạng Kim Tiên và bà Trương Thị Mọn đắc vị Ngọc Bửu Tiên Nương.

Thật là gian nan và khốn khổ cho một đại chơn linh xuống trần, trong thời kỳ bão lụt ở miền Nam vào năm Giáp Thìn thiệt hại về nhân mạng rất nhiều và tài sản tiêu hủy. Vào giai đoạn này gia đình của Ngài còn nghèo khó sống cơ cực, cha đi lặn lội làm ăn khắp nơi, đem tiền về để nuôi gia đình, nhà bị nước lụt Ngài phải ở trên bè chuối, được mẹ nuôi nấng, trong thời kỳ thiếu thốn đủ mọi thứ, không có chăn để đấp trong khi bão lụt, lại thêm lớn lên bị trôi sông, được người cứu vớt. Nhưng qua cơn bĩ cực rồi tới hồi thới lai, gia đình trở nên giàu có do bàn tay lao động của thân phụ, bán buôn, làm ruộng, mỹ nghệ vàng, bạc, sự nghiệp của Bùi gia đã đến hồi phát đạt, với mấy ngàn công ruộng nhà cửa khang trang, danh giá gia đình hiền đức, khắp vùng kính mến.

Với tình thông minh lỗi lạc học ít hiểu nhiều, từ trường Collège Cần Thơ đến trường Pétrus Ký Sài Gòn, kỳ thi tốt nghiệp Ngài đã đỗ thủ khoa toàn miền Nam và học hành chăm chỉ ngày đêm để chuẩn bị sang Pháp du học. Nhưng vì sức khỏe yếu kém, người mảnh khảnh ốm yếu, mang phải chứng bệnh lao, thổ huyết.

Thân Phụ của Ngài giải quyết cho thôi học để về nhà lập gia đình, nhưng vì các nhà giàu có, danh gia, vọng tộc ở miền Nam có con đi học Sài Gòn đều biết đến Ngài Bùi Hà Thanh vì vậy, đi hỏi cưới họ đều từ chối biết ngài mắc phải nan y bệnh tật, không thể sống lâu. Sau cùng thân phụ Ngài đến nhà ông Hương Cả Phan Văn Khá ở Cần Thơ để hỏi con ông là bà Phan Kim Đính. Thật là duyên lành định trước cùng với sự đồng tình của hai bên.

Ngài kết hôn với Bà Phan Kim Đính và sanh đặng những người con như sau;

1- Bùi Đăng Cao; sinh năm 1927 độc thân, Phẩm vị Đạo Trưởng tu hành đến khi liễu đạo.

2- Bùi Huỳnh Hoa: sinh năm 1929 chồng là Đỗ Văn Lược, bà tu hành đến khi liễu đạo.

3- Bùi Minh Tùng: sinh năm 1931 độc thân, hiện đang tu hành phẩm vị Đạo Trưởng.

B- Về Phần Đạo

Do sự hướng dẫn của thân phụ trong gia đình đạo, tu theo phái Chiếu Minh. Ngài Bùi Hà Thanh thấm nhuần đạo lý của Đại Thừa khi tiếp xúc với Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu, trong những cuộc Thánh du và là thơ ký riêng của Đức Ngài, sẵn tính thông minh tuyệt vời và có căn duyên với đạo. Từ 24 tuổi gặp gỡ Đức Giáo Chủ và được Ngài chữa trị dứt hẳn bệnh lao thổ huyết, lúc bấy giờ chưa có thuốc điều trị.

Đây là đức tin lớn nhất mà Ngài Bùi Hà Thanh tin tưởng nơi Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu, thay thế Thượng Đế, mở khai Cao Đài Đại Đạo và trong chuyến Thánh du Cao Miên Ngài hạ quyết tâm đi vào cửa đạo, dâng Đại Hồng Thệ bước lên đường tu luyện. Ngài đốt Đại Hồng Thệ vào giờ Tý ngày 14 tháng 07 năm Tân Mùi 1931 và được Ân Trên phê chuẩn với đàn cơ tại Chiếu Minh Đàn.

Tiếp Dẫn Đạo Nhân

Chân dặm liên hoa thấy tỏ tường

Tây Phương Tiếp Dẫn đạo trường tương

Muôn năm noi dấu càng thêm tuổi

Vạn kiếp không phai chiến chiến trường

Ba cõi thông đồng lui tới dễ

Chín từng thuộc lãm rõ uyên ương

Ví dầu hạ giái người cao đức

Độ đến Tây phương chỉ rõ đường

Biết ai Tiên ,Phật, biết ai phàm

Cho rằng hạ giái chớ nên tham

Trời cao đất rộng xem khôn thấu

Biển cả non xanh gắng tạm đàm

Buổi trước cũng tu đà to lớn

Nay gìn Đại Đạo biết là kham

Trở qua Non Bắc đừng day lại

Mới rõ Động Tiên cửa lão đam

Thanh nghe:

Thệ rằng trai giái đến muôn năm

Giữ chữ sát sanh dạ chớ lầm

Sắc, khí khuyên đừng cho dính vấp

Tửu, tài vô hậu mới nên tâm

Chơn thanh giá thú lìa thân trẻ

Ngọc ẩn Non Bồng nhứt khí thâm

Chuyển nỗi Càn Khôn hơi đã nhẹ

Nhọc mình luyện Tánh đáo sơn lâm

Khá khen tánh bạc đã nên trò

Giữ đặng như vầy mới đáng cho

E nỗi qua đèo rồi than khóc

Gặp khi lửa cháy đứng so đo

Tìm non khưu lãnh chi đâu nhọc

Ngặt nỗi quanh co chẳng rán mò

Chí dốc riêng vui cùng nước bích

Song le hữu sự đứng mà lo.

Kỳ cho trẻ một tháng sẽ cho người điểm đạo là ngày Rằm tháng Tám, vậy khá nhớ lời!

     Ngày mùng 01 tháng 09 năm Tân Mùi

Ngài thọ pháp do Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu chỉ dạy với sự hiện diện của Thân Phụ là Ngài Bùi Quang Huy, trong khi Ngài Bùi Hà Thanh được Giáo Chủ dạy đạo “chân truyền tâm pháp” Ngài Bùi Quang Huy nói rằng: thật Hà Thanh có duyên may được Giáo Chủ chỉ dạy một lần toàn bộ đạo pháp, không có dấu diếm chi cả.

Ngài Bùi Hà Thanh đảnh lễ bái sư Đức Giáo Chủ dạy rằng:

“Nay con lạy TA một lạy, ngày sau con thay thế TA, môn đồ lạy con muôn ngàn”. Ta miễn lễ cho con đấy! Ngài dạy Đạo cho Ngài Bùi Hà Thanh đã được đàn cơ chỉ điểm như sau:

Đêm 28 tháng 08 năm Tân Mùi 1931

HUỆ PHÁP TIÊN ÔNG

Huệ xuân kiết tụ đãi nhơn minh

Pháp thuật tinh vi thủ hạnh trình

Tiên tịch hiện hồi vô mạc vấn

Ông tri ngũ luật thị tâm kinh

Thanh nghe:

Qua ba bước tuy là trùng gốc

Đến chín trường rất nhọc con ôi

Ngày nay rán bước lần hồi

Theo chơn các bạn lo bồi nghĩa sâu

Chơn đã bước chơn âu toan bước

Miệng niệm kinh miệng ước công thành

Từ đây gắng giữ thiện lành

Lướt qua năm ải tam bành khó ngăn

Trước con đã căn phần thiểu hạnh

Nay tu hành ấm lạnh chớ lo

Bước vô đường chánh sẵn đò

Kẻ đưa người rước qua lò thế gian

Tuy đã biết tu nhàn lắm đó

Song khá dè nỗi khó chông gai

Tu hành gượng bước hôm mai

Bền lòng chắc dạ nào sai, nào lầm

Bước đầu mùng một ấy tâm

Lo hành chánh giáo ghi cầm nhớ ghi

Tam ngôi ngộ ngã lý khôi hài

Nhị lộ tri minh sẽ tự ai

Tâm giả khổ hành chi khổ giả

Bất tuân tự cố hậu từ đài

Vô tâm vô tánh Vô Chơn Đạo

Bất mục nhãn minh bất kiến tài

Hồi cố thành tâm tu hậu nhựt

Lai kỳ chơn đạo hữu thành lai

Tri kiến đạo phước lưu nơi thế

Nẽo tu hành chẳng nể công danh

Lo sao chơn đạo ngũ hành

Quá quan đắc lộ cuộc hành chấm bia

Cười kẻ thế cười lìa không dứt

Khóc cho đời căm tức cho ai

Hễ làm môn đạo trường trai

Kẻ thì thập lục kẻ may ắt thành

Người biết Đạo lo hành chánh giáo

Kẻ thập trai lúc láo khoe mình

Chê khen chẳng niệm lấp thinh

Rằng đời rằng thế rằng mình mấy ai

Thương cho thế chẳng nài nhọc khó

Phật giáng trần bởi có tiền căn

Độ người đọa thế ăn năn

Phản hồi cựu vị phi thăng khỏi trần

Hồi lai hậu nhựt khả tri

Mạc vấn tu chi bất tu chi

Tý Thời: ngày 08 tháng 10 năm 1948

Tý thời tái cầu có chủ đàn Bùi Hà Thanh tản cư ở bưng biền về hầu đàn đặc biệt nên chú ý từ lời từng chữ ý nghĩa cao thâm nên đã căn dặn trước:

Khương Thái Công.

An nhàn thong thả có ai hơn

Sớm tối ung dung chẳng oán hờn

Một túi, một cần hòa bạch cúc

Vui say khê vị có đâu sờn.

Biết ai giáng đàn chăng? Giải nghĩa Ta nghe, Thanh hiền giải nghĩa

               Thi

Bàn khê lộng lẫy một cần câu

Sông vị nào màng cảnh thế âu

Bả lợi vinh hoa ràng buộc mãi

Bảy mươi còn phải lúc lai chầu

Điển ký biết ai chăng? Bạch: Khương Thái Công

Nghe luôn môt bài nữa

               Thi

T- Thập nhị, tam niên đắc ngộ tràng

H- Hưng Nho, phục đạo hữu nhân gian

A-An bình thế sự quy kim cổ

NH- Nhập Thánh siêu phàm mở khiếu quan.

Biết chăng? Cắt nghĩa nghe thử! Lão chào chư hiền đệ và chư muội nữ với hiền đệ Thanh khi ra đàn giải nghĩa và tìm kiếm bài thi sau của Lão nhiều ý nghĩa, tự hiền xét suy vậy chư hiền cúc cung nghinh Thánh giá Lão hộ đàn, Lão xin lui.

Ngọc Hoàng Thượng Đế

Ngọc hòa giọt lệ bởi con thơ

Hoàng lịnh Hư Vô rán kịp giờ

Đại phước hưởng ân hồng võ lộ

Đế ban linh diệu chớ chần chờ.

Thầy mừng các con, Thầy cho các con an tọa nghe Thầy dạy.

Nầy Thanh con ôi! Khổ bấy lâu chia cách Thầy trò, con thì chịu cảnh trần lò nung nấu, còn Thầy mắc lo chiếu điển để dạy dỗ bầy con thơ dại của Thầy. Nay Thầy chuyển một đàn nơi đây đặng cùng con hội hiệp trong lúc “Hư Vô quang điện” chơn tịnh điển.

Con ôi! Dầu rằng trải qua bao cơn khó nhọc, bao lần thử thách, nhiều lúc gian truân, đôi phen biến đổi ấy chẳng qua là cuộc thế sắp tiêu, Niết Bàn hầu cận nên mới xảy ra những truyện biến loạn như thế đó, ấy chẳng qua là cơ tạo hóa để sàng sảy lựa chọn cốt để đem những con nào bền tâm cùng đạo, cùng thầy trở về nguyên vị đó thôi, còn ngày hôm nay tấm thân của con phải long đong với số phận tu hành thì Thầy cũng thầm thương yêu mến, một đứa con đã vì Thầy mà phải chịu một cách não phiền như thế.

Nay Thầy sắp “chuyển con về” để nưng đỡ cơ Thiên và cứu vớt nhơn sanh trong vòng nguy biến.                 Thử hỏi người như con mới liệu sao đó con ôi?

Bạch Thầy!

Muôn việc đều do Thầy hết trước cảnh ngộ của con, nếu là của người khác chắc sẽ đau đớn mãi lòng bùi ngùi chua xót khi nghe những lời thiết tha an ủi của Thầy, xong với con đã từng bình tĩnh thọ lãnh các cái khổ mà Thầy khiến xui cho con, con chẳng chút não lòng, trái lại còn vui sướng là khác. Con biết rằng sự khảo trở thử thách phải đến cho người tu.

Nhưng đối với con mà Thầy lại đem đủ điều khó nhọc khổ sở để khảo con chẳng kém những vị Tổ Sư, Đại Đức ngày xưa con hết sức cố gắng mới vượt qua nỗi. Thật là quá nặng nề cho con, Ông Jacob cũng bị thử thách chừng ấy thôi, Thầy đã rõ con, ít có người mến đạo, mến Thầy hơn con. Chịu bao nhiêu khổ sở chẳng một lời than luôn luôn mỉm cười mà lãnh lấy, con biết rằng cho họa được thì ban phước lành cũng dễ, con chỉ trách số phận con thiểu đức nên phải gian lao như thế, nhưng con không quên rằng đó là thầy giúp cơ hội tốt cho con tạo thêm thần lực để phòng khi qua đèo, qua ải có đủ nghị lực thắng các chướng ngại để đến mục đích nhất định là thượng đỉnh, càng lên cao, càng nhiều khó nhọc, nhưng cũng là triệu chứng cận kề của thành công.

Con vẫn biết ý Thầy, với lời Thầy đã phán, con nhận rõ Thầy đã phân tách con với những đứa con khờ dại của Thầy, con thì chịu cảnh trần lò nung nấu, con đã làm xong phận sự học sinh, hiện nay con là thí sinh, đã nhập Long Hoa Hội, đang phải giải quyết những đề tài khó khăn, những bài toán mắc mỏ của giám khảo đưa ra. Bao nhiêu tài hay phép giỏi Thầy đã truyền trao cho con, Thầy khỏi phải bận vì con Thầy mắc lo chiếu điển để dạy dỗ bầy con thơ dại của Thầy. Phần con phải tự lực chiến đấu, nên, hư, đậu rớt tự nơi con, do con mà thôi.

Thầy ôi! Thầy tiếc chi một vật báu mà phải khảo duợt hành hạ con đủ điều rồi mới ban cho, tuy nhiên ,con cũng cố gắng đem hết năng lực để đoạt lấy Trạng Nguyên Khôi, làm rạng danh Thầy con mới phỉ nguyện, hôm nay Thầy chẳng còn nghi ngờ chi nữa, con đã xứng đáng là đứa con yêu của Thầy rồi.

Bạch Thầy: Nay Thầy sắp chuyển con về...

Về Nội Công thì con rất vui mừng với câu ấy, còn về: bên ngoài Thể Xác thì thầy chuyển cách nào về được? Sở dĩ con phải bỏ nhà ra đi là quyết tránh loài hung dữ, “ly gia cắt ái” để đeo đuổi lẽ phải đường chơn “tùng chơn đạo chơn lý”. Hôm nay nay con phải đầu hàng quân tàn bạo để cầu yêu ổn tu hành sao? Việc ấy con không thể làm được, cũng như con không thể phục tùng chúa yêu “Phàm Tánh” vì trái với Lương Tâm và chắc chắn là trái ý muốn của Thầy đó, vì ở người lương tâm là Trời, trái với lương tâm là trái lòng Trời vậy.

Thiên tâm nhơn dục phán thanh trược,

Nhập thế siêu phàm thuận nghịch phân

Con đã theo thiên tâm chống lại nhân dục thì quyết thẳng một đường không đổi chí hướng. Lúc con ly gia chắc chắn tự Thầy khiến đó, hôm nay con có thể đến lúc về dạy dỗ, dìu dắt anh em thôi, chớ công khai về là không được. Nếu còn loài hung dữ tàn bạo là con luôn luôn còn mãi chốn bưng biền đê mai danh ẩn tích lo bề tự giác. Ở bưng biền khổ thật nhưng với hột muối lá rau con vẫn vui vẻ sống cam khổ bên cạnh đồng bào thân mến của con để cùng nhau chia sớt ngọt bùi, chung nếm cay đắng, chớ con quyết không chịu sống sung sướng trong nanh vuốt của loài sài lang hổ báo có ngày mang khổ, cũng như con không muốn đồng hóa với chúng sanh tánh, hiệp phe với triệt giáo có ngày bị nhân dục phân thây, mặc dầu được no nê thỏa thích.

Gia kê hữu thực than oa cận

Giả hạt vô lương Thiên địa khoan

Trong ngoài giữ in khuôn rập

Nợ nhà nợ nước con phải lo xong mới mong siêu thoát.

Tu hành là việc Thiêng Liêng của Chơn Thân

Việc nước nhà là bổn phận của nhục thể

Nhờ giúp con được toàn vẹn.

Dầu sao đi nữa thì cũng có Thầy luôn luôn ở một bên mà cứu vớt những đứa con nào thật tâm vì đạo, hết dạ cùng Thầy đó con.

Hôm nay cơ trời sắp bày diễn ra trước cảnh nhân loài chen lộn với thời cuộc, một là để cứu vớt những kẻ nguyên căn, hai là để phô khai Đại Đạo cho đến ngày qui nguyên thống nhất đó con. vậy con hãy vì Thầy mà ra tài kỳ chót thì phẩm vị một ngày kia chẳng nhỏ.

Con liệu sao?

Ở giữa thời cuộc như thế, mà nền đạo như thế con người đủ tài, đủ đức lại nhắm mắt im lìm sao con?

Bạch Thầy: con đã được cùng Thầy nên một, Cha con chẳng rời nhau gang tấc, chỉ còn chờ ngày qui nguyên không bao giờ dám hững hờ, quyết đem hết năng lực để hòan thành giai đoạn cuối cùng, nhờ Thầy yểm trợ con cho vẹn lời nguyện xưa kia thôi, còn phẩm vị con không dám mong đến. Con có tài đức chi, con tự xét thế nên ngần ngại lo âu chớ vẫn đớn đau mà xem thời cuộc. Về bên trong nội tâm thì con có thể kham tất cả, còn về bên ngoài, bên ngoài thế giới hữu hình thì con bất lực, không tài nào độ tận chúng sanh hữu hình, không làm sao thống nhất các mối đạo v.v...Việc ấy tùy Thầy định đoạt, Con hiểu về việc thiệt ở nơi Hư Không thế giới của con, còn việc của sắc giới hữu hình, hữu tướng là ngoại đạo, nay có Thầy về nhờ Thầy cho biết tương lai thể nào, con sẽ liệu lấy phần con.

Để Thầy cho con một bài thi nữa tự con nghiệm lấy

                 Thi

Cuộc thế long đong cũng chẳng rồi.

Gần đây sắp rã cảnh ly thôi

An hòa lập hứng cùng cờ đạo

Ngăn trước đón sau nghĩ nhứt hồi

Đó là bài thi Thầy cho con, ở giữa cảnh nầy. Còn về tương lai thì nghe:

Gần đây sẽ được trí tròn xong

Hội hiệp anh em đến đại đồng

Long Hội là ngày con hưởng lấy

Kế rồi, rồi kế cũng đừng mong

Mong sao ý nguyện đạt tâm thành

Ngày đến rồi đây hưởng chí thanh

Anh thuận em hòa, hòa cuộc thế

Mấy lời Thầy dạy khá phân rành

Ớ con ôi! Bởi vì nhơn sanh đã trải qua một thời gian khá lâu xa thầy xa Đạo, xa những điều lành nên ngày hôm nay muốn an hòa cảnh thế, xuất hiện Niết Bàn thì dưới cõi Nhân Hoàng Thầy chuyển chỉ còn một chữ Thanh, nghĩa là trược phải dằn xuống chỉ tồn Thanh mới xuất hiện Ngọc Kinh, con hiểu à!

Bạch Thầy

Con hiểu rõ ràng lắm.

                 Thi

Truyền sang “bí pháp” nhiệm cơ mầu

Xuất hiện Hư Vô hiểu lý sâu

Tịnh tọa an tâm, tâm bất động

Mới toàn “linh giác” rõ đuôi đầu

             Thi bài

Cơ tạo hóa xây dần biến lộn

Cuộc đời tàn hổn độn biết bao

Nhìn lại trước, ngó xem sau

Tiêu ma những kẻ xáo xào nhơn sanh

Đời biến lộn đâu rành lẽ phải

Phép nhiệm mầu, tự tại hư vô

Cảnh thế tạm, nọ Hà Đồ  

Phân tường bác quái, hư vô năng gìn

Đúng “Hợi Tý” truyền thinh linh điển

Phép cơ mầu, hiển hiện sau này

Ớ con trẻ, gắng cùng Thầy

Ngày sau sẽ đặng sum vầy cùng Cha

Hiện giờ đây, con ra sức cả

Giúp cơ quan hối hả đệ huynh

Dầu cảnh thế lúc thiên khuynh

Có Thầy che chở nhơn tình vững yên

Kế gần đây, thầy truyền linh điển

Triệu con về đặng diễn phô khai

Chí oanh liệt, ấy nhờ trai

Có ngày Thầy chuyển trần ai hòa bình  

Đến chừng ấy nhơn sinh hữu phước   

Rước con về thì được yên vui

Nam, nghi, báu chẳng bước lùi

Hiệp hòa huynh đệ cho vui lòng Thầy

Ra tay đỡ, con đây yên dạ.

Muôn việc chi, con chả màng chi

Hiểu rằng cơ tạo ly kỳ

Rồi đây sắp tới cảnh gì cũng tiêu.

Bạch Thầy:....

Thầy xoay chuyển cách nào tùy Thầy, con chỉ nhờ Thầy chớ không thế nào hiệp nhứt các chi phái đặng. Càng đi xa bản nguyên thì sanh nhiều nhánh nhóc đúng với lý nhứt bổn vạn thù. Về hữu hình cơ đạo con chịu thúc thủ vô sách, vì không cải đặng lý tự nhiên. Còn về nội công con thừa sức tam giáo, hiệp ngũ chi cho thành một cơ quan thống nhất, hiệp hòa huynh đệ tương trợ nhau, đưa Thầy đến cõi vinh quang cho vui đẹp lòng Thầy, cứu vớt chúng sinh làm cho thiên hạ thái bình, thuấn nghiêu thạnh trị.

Hiên giờ con phải làm sao đây?

Hiện giờ con ra tài, cả làm xây chuyển cơ quan Cao Đài Hiệp Nhứt con hiểu chăng?

Bạch Thầy

C.Đ.H.N. là cơ quan Cao Đài Hiệp Nhứt, công phu ấy con đã gánh lấy từ lâu

Con về cơ quan tại thế con vẫn từ chối vì mắt lo tu hành. Hôm nay có lời Thầy dạy con xin vưng lấy gọi là, cho vừa lòng thế, cũng hiệp ngoài trong. Tuy nhiên con vẫn rõ đâu là thiệt, giả.

Cười! Nghe thi

Anh hùng giúp đạo chí đâu nao

Thấy cảnh nhơn loài ruột úa xào

Thương bấy lê dân đang biến lộn

Nhơn tài gắng sức hiệp chung màu

Vậy thì kể từ đây con phải xoay chuyển cơ quan Cao Đài Hội Giáo cho được tròn nhiệm vụ, đó là Thầy giao con một trọng trách nặng nề bên trong, còn ngày con về và được đàng hoàng thì sắp gần đây con ạ!

Bạch Thầy

C.Đ.H.G là Cao Đài Hội Giáo trọng trách nặng nề bên trong con vẫn đang theo đuổi luôn luôn và cố gắng cho tròn nhiệm vụ khó khăn ấy còn C.Đ.H.G. hữu hình do các ông Nghi, Nam, Báu điều khiển con làm sao xây chuyển đặng. Con và mấy bạn ấy ở cách nhau không thể gần gũi và chẳng biết ý mấy bạn thế nào, hơn nữa bọn giết người cướp của vẫn còn tồn tại, con làm sao giờ?

Chẳng bao lâu thì cảnh ấy cũng tiêu con à!

Lịnh hiểu C.Đ.H.G không? Ở chùa hiểu chăng?

(Tái bút) Thanh! con nên nhớ bao giờ cũng có Thầy luôn luôn để bảo vệ những đứa con mà Thầy đã đặt nhiệm vụ Vào Tâm của nó con hiểu à! Vai tuồng trọng hệ của con lớn lao chớ chẳng phải nhỏ nhít chi.

Đây là Thầy mới chỉ có một ngành, còn thiếu chi con à, Thầy rất trông cho những con nào biết Thầy, biết đến Nhơn Sanh thì Thầy mừng lắm đó. Thôi việc của con còn nhiều, vậy từ đây con bắt đầu thi hành nhiệm vụ của Thầy giao phó, rồi sau Thầy sẽ dạy thêm. Hiện giờ Thầy còn xây chuyển để lập Bộ phận Hiệp Thiên Đài và nhơn tâm của các con, đã ra lãnh nhiệm vụ. Con hiểu à!

Bạch: con hiểu! Thầy đang gom góp các con chiên của Thầy lo sửa phàm tâm của chúng để chờ ngày làm cho chúng hiệp với thiên tâm xa đường nhơn dục thôi Thầy ban ân huệ cho mỗi con. Thầy hồi Bạch Ngọc

                 Thi

Bạch vân sáng tỏ cảnh trời thu

Hạc luyện từ xa đón gió Thu

Đồng đạo danh lam, vui thắng cảnh

Tử lai báo lịnh, tiếp mừng thu

                 Thi

Ngôi lành thương xót các con lành

Hai cảnh Tiên, phàm phải cố tranh

Giáo dẫn con Tiên về cảnh lạc

Chủ truyền Thiên lịnh độ nhân sanh

Ngôi Hai Giáo Chủ Thầy mừng Trưởng tử Hà Thanh Thầy ban ân chung cả trung đàn giờ nay Thầy giáng lâm đàn trung có điều cần thiết, vậy các con kỉnh thành lắng nghe.

Trưởng Tử Hà Thanh, Bùi Trí Dũng lắng nghe Thầy chỉ dạy trước hết Thầy đã lo liệu ban điển huệ cho Trưởng Tử từ đây bình phục cả thể xác lẫn tâm thần, càng cao càng tỏ rạng như hải đăng trong đêm bão tố, dù rằng điều đó Thầy đã chuẩn bị từ lâu.

Trưởng tử nghiệm suy sẽ rõ những ngày gần đây Trưởng tử đã sáng suốt và tinh thâm những khi thông công với Thầy, những điều mà Thầy bảo cùng Hà Thanh, bây giờ đã đến. Con hãy nắm vững tay lèo lái để ra khơi làm nhiệm vụ của Người Hoa Tiêu chứng minh tài lỗi lạc, chứ không phải ngồi xe có người đẩy như Khương Lão đâu!

Con nhớ ngày nào đã từng nhắc nhở dặn dò, thì thời nay phận sự ấy đã đến với con. các con vẫn thản nhiên đón nhận, vì trong sanh linh quá hãi hùng trước cảnh tượng mà gần như mọi người không suy đoán nỗi. Dù thế con vẫn tin tưởng lời phát ra là do Thầy quyết định. Người thủy thủ ngoài bể cả lúc nào cũng mong cho sóng to gió lớn để được chứng minh tài tuyệt đối của mình trước cơn sóng bão. Nhưng chẳng biết trưởng tử có giống như người thủy thủ đó hay không, như những ngày sắp tới trước tình thế phải đón nhận và cả thảy tin tưởng người hoa tiêu xuất sắc của Thầy về bến vinh quang.

Để kỷ niệm Thầy truyền lễ sanh rót một ly đào tửu, Thầy thưởng Trưởng Tử để thưởng ban lòng kiên trì của Trưởng Tử.

                 Thi

Tâm nguyện Thầy ban rượu tửu đào

Mừng con sóng gió vượt ba đào

Anh hùng mạt hạ thời duy nhứt

Uống rượu Thiên ban, sáng tợ sao

Thầy vui mừng lắm đó! Những ngày kế tiếp con hãy cố gắng hơn, dù biết rằng các con rất quyết tâm chuẩn bị vớùi nhiệm vụ Thiên ban.

Trí Dũng hãy đến Thiên bàn Thầy hỏi đây: con có biết sự hiện diện của con trong Bùi Gia cũng như trong Giáo Tòa suốt trong bao niên qua là ý của thầy thế nào chăng?

Bạch...............

Lành thay! Lành thay!

Thầy hỏi đó chớ chẳng riêng gì con mà trong toàn thể môn đồ đều biết vậy cả, những ngày sắp tới nhiệm vụ con nặng nề hơn...Thầy sẽ ban cho con nhiều điển huệ dù biết rằng lúc nào con cũng thiết tha cố gắng, đó là sứ mạng của người thế Thiên.

    Để kỷ niệm Thầy truyền Lễ Sanh rót ly đào tửu thứ hai Thầy ban cho Trí Dũng để kỷ niệm:

                 Thi

Mừng thấy trò con đã trưởng thành

Một tay Trí Dũng rạng oai danh

Bảng vàng quan trạng trông lừng lẫy

Cúc tửu Thầy ban trẻ đắc thành

Thầy rất vui mừng!

Thầy mời tử đồ Phan Kim Đính đến Thiên Bàn

Bạch............

Hôm nay Thầy mời con đến Thiên bàn để dạy lời Cha tha thiết, suốt bao năm tu khổ, Thầy đã rõ công lao, dù tự coi là nhỏ mọn nhưng đó cũng chứng minh lòng kiên trì thiết thạch. Giờ đây sẽ qua giai đoạn mới, sự có mặt của con cũng rất cần cho cơ đạo.

                 Thi

An phận vuông tròn, phận trẻ con

Mừng thay công lớn đã lo tròn

Thầy ban điển huệ con tu luyện

Chung hưởng đào nguyên dạo cảnh non

          Thầy rất vui mừng!

                 Thi

Âm dương hiệp nhứt đẻ ra trò

Ánh sáng từ tôn tợ núi to

Pháp đạo trường sanh là thế đó

Hiểu chăng Trưởng Tử, đạo mười pho

Bạch sư phụ: Dù không hiểu rồi cũng hiểu, hiểu mà không hiểu!

Cười-cười!

Khiêm nhượng làm chi đại tử đồ

Gồm thu pháp đạo, rõ hư vô

Mà còn khiêm nhượng là không hiểu

Thi thố tài cao mấy trận đồ

Hôm nay Thầy quá vui, vậy Thầy viết một bài kỷ niệm

                Thi Bài

Nhìn sách sử muôn năm truyền để

Những danh nhơn, bốn bể kinh hoàng

Là đời dâu bể hợp tan

Anh hùng tạo dựng sang san muôn đời

Đó là cảnh thay đời, đổi sắc

Dựng huy hoàng sắp đặt an dân

Lập đời vui vẻ tân dân

Bốn phương an lạc, thần dân hưởng nhàn

Đây là cảnh dựng cờ, đổi nước

Vạn muôn lần, từ trước tạo danh

Vua tôi đắp lũy xây thành

Thưởng ban chức tước, bia danh rạng ngời

Con Trưởng Tử đời đời lại khác

Một Anh Hùng bát ngát hương thơm

Đạo lành vạn kiếp còn thơm

Dạn dày sương tuyết, danh cồn bốn phương

Trong quá khứ tận tường đau khổ

Dựng Đạo Mầu vạn cổ nêu danh

Nhìn xem ai được đắc thành

Tìm trong sử đạo, bia danh mấy người

Thay một kiếp, Lịnh Trời sắc chỉ

Thương chúng sanh, chẳng nghỉ thân mình

Đổi thay muôn vạn trăm hình

Qua bao khó nhọc, công trình lắm thay!

Thầy nhắc trẻ, tháng ngày nhàn nhả

Là những giờ thư thả nghĩ suy

Soi đường dìu dẫn lối đi

Vẹn toàn đẹp đẽ, còn gì quý hơn

Khuyên con trẻ, nghe đờn ráng nhớ

Người đỡ đầu sáng tợ Thái sơn

Công kia như núi chập chờn

Nghĩa tình tử tử đệ, không sờn đó con

Giờ vinh hiển các con mới rõ

Công Trưởng đoàn, mà đọ Thái sơn

Bây giờ Thầy bảo thiệt hơn

Ngày sau các trẻ nghe đờn thậm thâm

Nương bút pháp khuyên tầm lý đạo

Đâu bằng lời dạy bảo Hà Thanh

Từng lời, từng nét đành rành

Năm mươi gian khổ, công thành không mơ

Khuyên các trẻ từng giờ học đó

Cố làm sao, sáng tỏ Ơn Người

Dắc dìu dạy bảo tròn mười

Không than, không tiếc, một đời luyện trau

Thầy chỉ muốn con nào cũng hiểu

Đạo của Thầy đa tiểu rõ ràng

Vô vi pháp đạo ẩn tàng

Có người chỉ rõ lối đàng về nguyên

Cơ sàng sảy, mật truyền tỏ rõ

Các con ôi tầm ngõ vô vi

Thầy lo, Thầy dạy còn chi

Mà không cố gắng, hữu vi làm gì

Lời kỷ niệm, chép ghi để lại

Ngày sau đây, cả thảy nhớ rằng

Thầy lo mạc hạ khuyên răn

Đỡ nâng chỉ biểu, hằng hằng châm lo

Thầy nhắc lại: “Con Đò duy nhứt”

Bùi Hà Thanh túc trực sẵn sàng

Đưa con về đến Thiên Đàng

Tại con thiểu đức, lỡ làng kiếp tu

Rồi nay cảnh mây mù bao phủ

Từng đàn chiên, lũ lũ tìm lo

Con ôi! Trời đã ban cho

Mà không thấy được “Con Đò Vô Vi”

Thầy cũng nhắc, bởi vì sanh chúng

Thiểu duyên căn, lúng túng cùng đường

“Màn Ba” lửa dậy tứ phương

Dù Trời cũng phải đoạn trường lệ rơi

Cơ mãn điển, tạm lời nhắn nhủ

Khuyên nhơn sanh chưa đủ thiện từ

Thầy về ngự chốn Cung Hư

Mà lòng còn vẫn ư chừ thảm thương

Giờ mãn điển Thầy giã từ (Chiếu Minh Giáo Tòa)

NGÀY TRÙNG CỬU 9-9-78

                 Thi

Minh chỉ ban truyền hạ thế gian

Y theo thiên lịnh đáo cung hoàng

Đồng vâng sắc lịnh lai đàn nội

Tử báo tin lành, khá kỉnh trang

Minh Y Đồng Tử tiểu đệ được lịnh lai đàn giờ nay báo tin có sư phụ giá lâm, vậy đàn trung kỉnh trọng nghinh tiếp.

                  Thi

Ngôi tiên sắc lịnh chốn cung hoàng

Hai một làm tròn, thoát thế gian

Giáo đủ, quy nguyên hồi bệ ngọc

Chủ lai đàn nội, đẹp an khang

An khang mừng trẻ, đạo chung toàn

Xứng đáng đại đồ đó bớ con

Chấp chưởng ba quân hồi cảnh thượng

Còn gì hoan hỷ, phận song toàn

Song toàn mạc hạ, khổ thân con

Bãi biển nuông dâu, dạ chẳng mòn

Ngày cuối, xe loan, cờ, pháo, trống

Quạt hầu, dâng rượu, đáp công con

Thầy lai đàn giờ nay nhơn ngày kỷ niệm 48 năm thọ pháp của Đại Tử Đồ Hà Thanh, vậy Trưởng Tử có cần thăm hỏi điều chi chăng?

Bạch sư phụ: tự Ân trên thấy có cần điều chi phải dạy bảo hiện nay thì chỉ truyền ngay để con cố gắng thi hành cho tròn phận tôi con là đã vui toại rồi chớ không mãi mai muốn được hưởng thụ điều tưởng thưởng gọi là đáp công con như bài thi trên Thầy đã nói.

Lời bạch của Trưởng Tử làm cho Thầy xúc động vô ngần, một kẻ đã dày công, tình nguyện hiến dâng suốt bao nhiêu kỷ nguyên cho đạo pháp mà không cần một ân huệ nào, khác hẳn với thế nhân. Điều đó, đã chứng minh ngày con đắc thành Thiên Lịnh chẳng còn bao xa và vất vả nữa.

Thầy hỏi thêm Trưởng Tử: “Thiên Lịnh sắc ban-chu toàn thiên hạ” nhiệm vụ đó, Trưởng Tử thấy thế nào?

Bạch sư phụ:

Đối với con, đương nhiên là một nhiệm vụ lớn lao, không tiền khoáng hậu, với một trọng trách nặng nề, tuy nhiên con cảm thấy không cô độc vì Thầy chịu trách nhiệm với Thượng Thiên, con chịu trách nhiệm với Thầy. Sư- Đồ liên đới trách nhiệm trong một hành tàng do thiên dĩ định.

Dù thế, con cũng không hoàn toàn ỷ lại vào Thầy, mà phải tận tâm nỗ lực của chính mình, về ngoại cảnh, giai đoạn trước đã hoàn thành tốt đẹp thì giai đoạn sau sẽ gặt hái kết quả như ý muốn.

Con tin chắc như thế vì con đã đạt được quyền tự chủ nơi nội tâm, ngự trị tiểu thiên địa của chính mình thì việc thế gian thiên hạ cũng thế vì đó là sự phóng hiện đại ảnh của nội giới tâm linh mà hình thành hiện tượng y như phóng đồ...

Đành rằng phải nhiều gian lao khổ nhọc nhưng hiểm nguy, gian khổ là điều quen thuộc muôn đời của con rồi. Hơn nữa con đã biết rằng: Cái Bí Quyết làm cho cuộc sống dẫy đầy hạnh phúc và sự sung sướng của con người là sống trong nguy hiểm và dày dạn phong sương, gian lao cực nhọc “cung cấp nhiều thú vị”.... con cũng không nặng lòng về kết quả để mong trở nên thế này, trở thành thế nọ vì đó cũng là tham vọng của tương tục tâm sáng tạo”

Thầy Chuẩn Phê:

Hà Thanh hoàn toàn Trí Thông Đạo Lực. Vậy Trưởng Tử hãy an lòng trong nhiệm vụ suốt bao niên tái lập trường Vô Vi Đạo Pháp của Trưởng Tử làm sáng tỏ một vòm trời.

Điều đó các môn phái nhìn thấu và thấy rõ ràng hơn trong những ngày sắp tới, chứ không còn là một ánh sáng sao nhỏ ở vòm trời nữa, mà là một mặt nhựt đỏ ở trên trời, báo hiệu một bình minh tươi đẹp đem lại sự an lành cho nhân loại.

Điều đó là ngày nhân loại được hưởng phúc trời ban, những ai thiện căn đủ đầy sẽ tròn nguyện ước mơ, dù là kẻ dữ biết quầy đầu hướng thiện, còn riêng toàn thể nguyên căn đạo phúc đó là ngày đắc vị Thiên ban tưng bừng như ngày Long Hoa mà các con đã được tận hưởng tại thế gian.

Nhân ngày kỷ của Trưởng Tử, thầy viết một thi bài tri tặng cho một Đại Đồ Đệ nhiều gian lao, ít thọ hưởng. Thầy và con không bao giờ ngăn cách bởi “ Hữu Vô là Một”

Thân thế về đạo và đời của Ngài Bùi Hà Thanh được Giáo Chủ Ngôi Hai cho một bài thi kỷ niệm đúng với hoàn cảnh từ đời đến đạo quá ư gian truân, đau khổ nhưng đó là dịp tốt cho Ngài, trui rèn để trở thành những kinh nghiệm quý báu cho cuộc đời hành đạo, có khổ đau nguy nàn thì thành công đắc quả mới rạng rỡ vinh quang.

                 Thi Bài

Lìa Điện Ngọc Thầy lai đàn nội

Mừng con thơ muôn nổi sống dồi

Giờ đây tai nạn qua rồi

Trăm cay, ngà đắng, bồi hồi cảm thương

Từ hạ thế đoạn trường nước lũ

Thân bé thơ không đủ chăn màn

Trưởng thành trong cảnh đa đoan

Thân trai gánh nặng vẹn toàn hiếu trung

Rồi sóng gió đùng đùng nổi dậy

Lìa quê hương máu chảy ruột mềm

Thương đời thương đạo bao niềm

Ly tan cách trở còn thêm ngục tù

Sống với thế âm u đen tối

Dạng với đời tìm lối thiên cung

Xa thầy xa bạn lạnh lùng

Mỏi mòn ngóng đợi trùng phùng cảnh xưa

Rồi đến lúc mây mưa tan tác

Ngôi trường xưa ồ ạt sửa sang

Thầy trên trò dưới đàng hoàng

Trống chiên thúc giục khoa tràng vui thay

Ngày trước đó là ngày tử đệ

Ngày hôm nay chứng lễ khoa tràng

Lại ngồi trên ghế đàng hoàng

Chấm thi từng nét chữ son phê truyền

Công mài sắt triền miên đau khổ

Thì đến ngày pháo nổ vinh quy

Rõ ràng nào có dối gì

Hữu Vô gồm đủ khoa kỳ treo tên

Bốn mươi tám năm bền công quả

Đáng mặt Thầy nay đã lộng xe

Nhớ ngày xưa ấy mây che

Giờ đây tan hết lòng nghe não nùng

Chỉ một kiếp lao lung thế đó

Nhắc cho con muôn thuở còn hơn

Mấy ai dạ sắt chẳng sờn

Cảm thương Trưởng tử vùi cơn dãi dầu

Lưu lại thế công đầu đó trẻ

Để môn đồ mọi lẽ nghiệm suy

Người mang Pháp Đạo Vô Vi

Hà Thanh Trưởng tử kiên trì đắc minh

Thầy nhắn nhủ môn sinh nhỏ bé

Chớ mộng tham này nhé con ơi!

Muốn làm Giáo Chủ đời đời

Thì thân phải chịu muôn lời đắng cay

Thập Tự Giá gương “Ngài máu đổ” (Chúa Jêsus)

Lìa cung son lìa chỗ thân yêu (Phật Thích Ca)

Ra ngồi nơi chốn quạnh hiu

Mong tìm Pháp Đạo muôn điều đắng cay

Cứu nhân loại còn say ngủ mãi

Trong cảnh đời ngang trái, trái ngang

Tưởng rằng nương cảnh huy hoàng

Bừng ra mới rõ hoàn toàn khổ đau

Do sự sắp đặt của Ân Trên Ngài Bùi Hà Thanh là vị hậu duệ quan trọng của cơ cứu độ kỳ ba, hành đạo tu thân chu đáo căn bệnh nan y dứt hẳn, thân thể thay đổi phát tướng, trí tuệ khai minh, đời sống an nhàn, như tiên tại thế.

Thời điểm quan trọng đến với Ngài Bùi Hà Thanh ngày mùng 10 tháng 03 năm Nhâm Thân Giáo Chủ cho mời Ngài đến để dạy việc trước khi Giáo Chủ Triều Thiên. “Sự mật truyền riêng biệt chỉ có Ngài được Giáo Chủ truyền linh điển, để thay thế Giáo Chủ khi Ngài triều thiên liễu đạo”.

Rồi ngày 13 tháng 03 năm Nhâm Thân Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu triều thiên trên dòng Cửu Long Giang, đối với Ngài Bùi Hà Thanh đây là một mất mát lớn lao vì Ngài học đạo với Đức Giáo Chủ chỉ được 6 tháng (mùng 01 tháng 09 năm Tân Mùi 1931- đến ngày 13 tháng 03 năm Nhâm Thân 1932).

Tam tiền tam hậu Đức Giáo Chủ lập Hội Thanh Chiêu cho biết:

Thanh: Bùi Hà Thanh

Chiêu: Ngô Minh Chiêu

Thanh Chiêu tương hội con Thầy đồng nhất.

Con là Thầy, Thầy là con

Giờ nay đệ tử trở thành Chí Tôn

Điều này chứng tỏ rằng pháp đạo của Ngài Bùi Hà Thanh đến gian đoạn hoàn mãn thuần dương, khác hẳn với lòng mê tín dị đoan, tưởng rằng hội này sẽ mở bằng hữu hình, thiện nam, tín nữ đến cầu gia nhập để được cứu vớt, trở về với trời cha phản hồi cựu vị. nhưng họ chờ mãi mà không thấy, có hội Thanh Chiêu nào được lập ra đâu, rồi nghi ngờ lời Tiên ý Phật.

Điều này Giáo Chủ với ý định lớn lao dạy bảo cho toàn nguyên căn phúc tử tĩnh tâm hướng thiện tu hành tìm ngay người hậu duệ duy nhất Giáo Chủ lưu truyền lại hậu thế có tân là “Thanh” tồn tại thế gian này. Hãy tìm đến để được chân truyền đấy là lời châu ngọc của Thần Tiên cần phải thông hiểu, tri hành cho đúng lẽ, mới được cứu chuộc kỳ ba mạt thế này.

Thêm một điều quan trọng trong cuộc đời hành đạo của Ngài Bùi Hà Thanh là: Đức Chưởng Giáo Bùi Quang Huy, Huệ Mạng Kim Tiên triều thiên, một năm sau đó, ngày 18 tháng 02 năm Quý Dậu 1933.

Ngài Bùi Hà Thanh tưởng rằng mất đi ân sư bám víu vào Thân Phụ nhưng cả hai không còn nữa, trong giai đoạn này tâm tư của Ngài cảm thấy bơ vơ, một mình đi vào con đường đạo với sứ mạng cao cả lãnh đạo Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh Đại Thừa Tâm Pháp để khỏi phụ lòng những người giao phó và kỳ vọng.

Nhờ kinh nghiệm của Giáo Chủ ban truyền, trí đạt thông minh , lãnh đạo một cách an nhàn và đến lúc này đạo lại càng hưng thịnh thêm danh tiếng của Ngài Bùi Hà Thanh được lan truyền khắp chốn.

Sự yên ổn không bao lâu cơ trời chuyển xoay thế chiến thứ hai xảy ra làm đảo điên, nhân sinh đồ khốn khắp nơi, nhất là tại xứ Cái Vồn, nhiều phe phái nổi dậy, các thế lực vũ trang, kình chống với nhau, sát phạt đẫm máu, thây trôi đầy sông, mạng sống của con người không còn bền vững nữa. Sự kinh hoàng của con người lo sợ chỉ sống qua ngày tháng, cảnh khổ đến Ngài Bùi Hà Thanh phải lìa bỏ quê hương Tổ Đình Chiếu Minh Đàn huy hoàng lộng lẫy bị tiêu thổ kháng chiến trở thành đống gạch vụn, đổ nát hoang tàn, cảnh tang thương, u buồn đến với ngôi Tổ Đình ngày xưa vang bóng một thời, trong phút chốc chẳng còn nơi dạy đạo.

Ngài Bùi Hà Thanh lãnh đạo các môn đồ, tín đồ Chiếu Minh đi vào con đường chân chánh, bất tranh, đúng với lẽ vô vi, chỉ còn cách lánh xa chỗ dữ mà Ân trên chỉ dạy.

Ba mươi sáu bận hiểu rành giải nguy

Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng

Cho nên Ngài ra lịnh chạy tản cư để thoát chỗ đấu tranh bom đạn, trong giai đoạn này, có lúc Ngài tọa thiền trên đám lục bình, máy bay oanh tạc cận kề, giặc ruồng bố, nào là thiết giáp, bộ binh vây hãm nhưng Ân trên chỉ dạy;

“Đâu đâu cũng có thân Già hộ con”

Trong cuộc chiến, chín năm khói lửa, cả gia đình được an toàn, bình yên vô sự, không một ai hy sinh mất mát chi cả, nhưng Ngài Bùi Hà Thanh và Ngài Bùi Hà Đông phải chịu cảnh tù đày tham thiền công phu trong khám, thật rất khốn khổ và mọi sự đều qua hết.

Năm 1954-1955 chiến tranh chấm dứt, ngọn lửa ở tại xứ Cái Vồn không còn nữa, Ngài Bùi Hà Thanh trở về quê hương, tạo dựng lại ngôi nhà tại Tổ Đình Chiếu Minh Đàn ngày xưa.

g -:Phú Quốc

        Cao Đài Hội Thánh-Chiếu Minh Vô Vi

Tuất thời ngày 14 tháng 03 năm Đinh Mùi (23-04-1967)

                  Thi

Giác thế hồi tâm học đạo trời

Minh tường giáo lý độ người đời

Kim thân muốn đặng thay phàm thể

Tiên ý cần trau chớ đổi dời.

Giác Minh Kim Tiên chào chư Thiên mạng, chào mừng chư hiền hữu, hiền muội, vâng lịnh Ngôi Hai Giáo Chủ-Ngô Đại Tiên dạy hiền hữu Tựu và Truyện hãy sắp đặt một bàn rượu trà, hoa, quả, vì Ngô Đại Tiên có thỉnh chư Tiên Phật giáng đàn chứng lễ, chào chư Thiên mạng và chư hiền hữu hiền muội, xin kiếu...

Tiếp điển:

                  Thi

Cảnh trí thiên nhiên trước sắp bày

Huyền vi lố bóng đạo hoằng khai

Non sông bốn mặt Trời soi sáng

Nhơn vật mười phương đất chuyển xoay

Sứ mạng Tam Kỳ trao Việt Quốc

Chủ quyền nhứt thống lập Cao Đài

Hạ Nguơn sĩ tử mau mau bước

Ổn định càn khôn đã đến ngày.

Ngô Minh Chiêu, Tiên Huynh chào chư Thiên mạng chào mừng chư hiền hữu hiền muội, Thầy mừng chư đệ tử.

Hôm nay chư đệ tử thiết lễ kỷ niệm để nhớ ơn Thầy và thay mặt Thầy mời chư đồng đạo các nơi quy tụ đến mảnh đất nhỏ hẹp nầy để đánh dấu lịch sự ngày Thượng Đế ban biểu hiệu “Đạo Cao Đài” trong kỳ ba ân xá. Thầy rất mừng và cảm động vô cùng trước nỗi ưu tư của chư đệ tử đối với tiền đồ nền Đại Đạo Cao Đài.

Kỳ lễ năm nay có phần đặc biệt hơn hết là thầy có thỉnh chư Tiên Phật và đạo hữu tiền bối quá vãng đến chung vui với Thầy, với chư hiền đệ hiền muội và chư đệ tử.

Chư hiền đệ hiền muội! Trong những ngày qua chí đến ngày nay, Tiên Huynh nhận thấy lòng ưu tư và thiết tha đến ngày kỷ niệm này của chư hiền đệ hiền muội nên chư hiền đệ hiền muội từ các phái đoàn các nơi đến thành phần cá nhân, đã vượt sóng ngàn khơi đến để tưởng nhớ và hân hoan ghi nhận nơi đã phát sinh di tích Đạo Cao Đài.

Để long trọng hóa buổi lễ hôm nay, hầu tưởng thưởng đáp lại lòng ưu tư và gian khổ đó, nên Tiên Huynh có thỉnh chư Tiên Phật và đạo hữu tiền bối quá vãng trong Đạo Cao Đài đến chứng lễ và chung vui với chư hiền đệ hiền muội cũng như các hàng đệ tử trong tình Thiêng Liêng và lý đạo.

Đây Tiên Huynh tạm nhường bút các vì Tiên Phật, rồi sau đó sẽ đàm đạo thêm, ngưng điển.

Tiếp điển:

                 Thi

Thiên quang vũ trụ ánh muôn màu

Quyền pháp Tam Kỳ một túi thâu

Chuốc chén kim tương cùng thế sự

Có ai theo Lão đến vườn Đào.

Động Đình Tiên Trưởng  Họa Nguyên Vận

Nước trí non nhân đẹp sắc màu

Thiều quang nhặt thúc nhẹ tay thâu

Vị lòng Tiên Trưởng lâm trần thế

Mở ngỏ Nguyên nhân đến Động Đào.

Nam Cực Tiên Ông  Họa Nguyên Vận

Muôn cành sen thắm trổ muôn màu

Lơ lững dòng đời chọn khách thâu

Ai có chánh tâm gìn chánh đạo

Kề chơn ghé bước lại nguồn Đào.

Từ Hàn Chơn Nhơn  Họa Nguyên Vận

Trời nước bao la vẽ một màu

Quần Tiên hội yến giữa canh thâu

Soi làng quang điển cho trần thế

Rước khách chơn tu đến Động Đào.

Đông Lâm Tiên Trưởng  Họa Nguyên Vận

Tòng bá thanh thanh đẹp sắc màu

Chuyển luân nhựt nguyệt bóng hoàng thâu

Dòng đời ít kẻ toan đi ngược

Hưởng thú tiêu dao chốn Động Đào.

Cái Thiên Cổ Phật  Họa Nguyên Vận

Tử phủ Tiên Cung chẳng nhạt màu

Cuộc cờ thạch thất dễ chi thâu

Hỏi ai có biết chàng Trương Tử?

Rủ áo công khanh đến Động Đào.

Huỳnh Thạch Công  Họa Nguyên Vận

Tiên Thiên ai muốn vẽ nên màu

Danh lợi hồng trần chớ tóm thâu

Chánh đạo không gìn e phải đọa

Đọa sa vì bởi hố mình đào.

Liễu Nhứt Chơn Nhơn  Họa Nguyên Vận

Sắc nước trùng dương vẽ một màu

Vạn thần hãi đão tóm tay thâu

Thuyền từ chực rước người tu niệm

Hưởng thú thiên nhiên chốn Động Đào.

Hãi Triều Thánh Nhơn  Họa Nguyên Vận

Chín từng mây bạc ánh muôn màu

Vạn kiếp tu trì mới đặng thâu

Nặng túi lợi danh đừng lấp lững

Không tu chớ mộng đến vườn Đào.

Phạm Công Tắc  Họa Nguyên Vận

Ngàn năm một thuở trổ hoa màu

Đất Việt Cao Đài rộng mở thâu

Khuyên chớ bôn ba tranh giả cuộc

Quày chơn kẻo trể hội Bàn Đào.

Nguyễn Ngọc Tương  Họa Nguyên Vận

Chiếc áo Thiên Phong chữa bạc màu

Con đường sứ mạng dễ chi thâu

Hởi ai, ai đó, ai tri kỷ?

Quảy gánh đồ thơ đến Động Đào.

Nguyễn Bửu Tài Đồng Viết

Cao Đài Hội Thánh Hội Quần Tiên

Chứng chiếu trần gian lễ kỉnh thiền

Giá Hạc trập trùng nâng rượu cúc

Tường vân phấp phới nhắm trà sen

Ngâm câu chánh đạo soi đường sáng

Mở lối tu chơn dắt bạn hiền

Ban bố hồng ân cho tất cả

Giã từ đệ muội lại Cung Thiên.

Tiếp điển:

Ngô Minh Chiêu chư hiền muội hiền đệ và các đệ tử hãy đọc bài đưa Tiên.

Tiên Huynh miễn lễ, chư hiền đệ hiền muội và Thầy cho phép các hàng đệ tử an tọa đẳng đẳng.

Chư hiền đệ hiền muội! Sở dĩ cách xưng hô có khác nhau là Tiên Huynh hay Thầy, đó là nơi lòng người nơi thế gian và cũng để thể hiện lòng ưu ái thâm tình với nhau. Thật ra trước Đấng Chí Tôn, chúng ta tất cả là anh em. Mỗi người đều có một sứ mạng chung, đó là tu thân hành đạo, làm sáng danh đạo, đem đạo độ đời, từ chỗ tội lỗi hung ác trở lại đường thuần lương thiện mỹ, để có thể biến cảnh thế gian này trở thành cõi Thiên Đường Cực Lạc, lập lại đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Chừng đó giữa con người và con người đều lấy tình thương yêu ruột rà đối xử với nhau trong tình tương thân tương trợ.

Ngày nay chư hiền đệ hiền muội đã vì Thầy, vì đạo, vì nhơn sanh vượt sóng đến đây, cũng như Tiên Huynh đã vì sứ mạng năm xưa còn đeo đẳng, nên ngày nay thay vì an hưởng lạc thú thanh nhàn, rượu cúc trà sen nơi non bồng nước nhược, ngày tháng tiêu dao nơi Bồng Đão, lại phải vì sứ mạng đó còn vương vấn với nhiệm vụ là đem đạo độ đời, trùng hưng chánh pháp để kịp ngày Long Hoa Đại Hội.

Chư hiền đệ hiền muội! 42 năm khai đạo và giáo đạo vừa qua, chính Đức Chí Tôn đã bổn thân xuống trần, cũng như các hàng Phật Tiên Thần Thánh đều giáng bút, phát ban nhiều kinh điển, nhiều giáo lý; chư hiền đệ hiền muội và các hàng đệ tử đã đọc qua nhiều lắm rồi. Giờ đây chỉ còn có một điều là thực hành chơn pháp, rèn luyện chánh tâm, giữ gìn chánh tín, để tu chánh đạo, hầu tự cứu trong cơ sàng sảy đào thảy của định luật.

Tiên Huynh rất buồn và tiếc cho các hàng hậu học ngày xưa không lãnh hội được đạo lý huyền thâm và trọng tâm khai đạo của các Đấng Giáo Chủ. Do đó đã quan niệm đạo lý trong phạm vi chật hẹp, cách ngỏ ngăn tường, đã đóng khung đạo lý trong phạm vi độc tôn, độc đoán đã gây bao lần thất kỳ truyền.

Rất đổi đến ngày nay cũng còn có nhiều cấp lãnh đạo đã quan niệm đạo lý dường ấy, tưởng rằng đạo lý là của riêng một người hay một nhóm. Do đó đã bày ra bao nhiêu hình thức độc tôn. Đó là một tệ hại rất lớn cho cấp lãnh đạo, giáo đạo.

Cho gọi Bùi Hà Thanh ứng hầu....

Thầy cho mời Bùi Hà Thanh, tất cả đàn hầu ngạc nhiên vì nơi chánh điện được gọi tên mà vắng mặt.

Có người biết rõ Ngài Bùi Hà Thanh đang ngự ở Thạch bàn bên mé biển, nhìn trăng thanh gió mát, bởi vì Ngài không thích cảnh nhộn nhịp đua chen theo hình tướng.

Biết được Giáo Chủ cho gọi, Ngài Bùi Hà Thanh đến quỳ xuống và nghe dạy việc, Thầy cho gọi con đến Dương Đông lần này là để giới thiệu với toàn thể các chi phái về trọng trách của con trong kỳ ba mạt thế này. Người lãnh đạo là hướng dẫn các hàng môn đệ về tâm pháp vô vi cũng như hiệp nhứt Đạo Cao Đài trong tương lai.

                  Thi

Chánh đạo thành do bởi chánh tâm

Chánh tâm chánh tín khỏi sai lầm

Lầm theo dục vọng rồi chia rẻ

Chia rẻ sau này hối vạn năm

                  Thi Bài

Năm Đinh Mùi tháng ba, mười bốn

Hội đạo đồng giữa chốn Dương Đông

Nhứt tâm hoài niệm bóng hồng

Sáng soi vũ trụ trong vòng tang thương

Trên mặt biển bườm trương thấp thoáng

Giữa lưng Trời cánh nhạn tung bay

Ôi! Non sông đẹp đẽ thay

Tranh kia ai họa, cảnh này ai tô

Dựa ven gành nhấp nhô cẩn hạc

Cuối triền non thảnh thót giọt châu

Phải chăng Khương Tử ngồi câu

Hay là Sào Phủ đuổi trâu trên dòng?

Nhịp vó ký Tái Ông đắc thất

Tiếng chày kình nhà Phật thu không

Trăm năm gẩm khéo bận lòng

Rủi may đâu cũng sắc không đó là

Lửa phiền cháy Ma Ha rưới tắt

Nước triều dưng thuyền bát sẵn chờ

Tiên Ông có bộ Thiên thơ

Ai người sứ mạng huyền cơ mở màn?

Học phải hiểu hành tàng hư thiệt

Hành cần tri bí quyết nhiệm mầu

Con đường đạo lý cao sâu

Cứu nhơn cứu vật trong bầu trần gian

Tài Nghiêu Thuấn trị an thiên hạ

Đức Trọng Ni chứng quả thánh nhơn

Là do nhứt quán lý chơn

Lập đời trị nước giáo dân thái bình

Nào phải cậy phù linh phép lạ

Có màng chi hoán võ hô phong

Văn Vương cầm tội vẽ vòng

Phải chăng lý đạo ở trong lòng người

Đồng linh tánh đất Trời ban phú

Cũng hình hài phụ mẫu sở sanh

Người xưa có khác chi mình

Phật Tiên Thần Thánh trong hình phàm phu

Muốn đắc quả cần tu chánh đạo

Muốn độ đời hoài bảo chánh tâm

Xét xem cơ chỉ chớ lầm

Làm người cho vẹn mới tầm vị ngôi

Đại linh quang giống Trời gieo xuống

Tiểu linh quang kiết chưởng hóa sanh

Càn khôn tóm một thân hình

Chuyển luân thuận nghịch vận hành tương tri

Hằng nói đạo vô vi vô tướng

Lại vô hình vô tượng vô danh

Hữu vô lý đạo suy rành

Mới mong thấu triệt máy linh nhiệm mầu

Cơ sinh dục quát bao Trời đất

Ở đất Trời phân đặt tượng hình

Chở che khắp cả vạn linh

Ấy là hình đạo dưỡng sinh muôn loài

Bóng nhựt nguyệt vần xây ngày tháng

Tiếng sấm vang mưa thuận gió hòa

Một hàn một thử lại qua

Đó thiệt tình đạo chan hòa nhơn gian

Nam chỗ đặt ngôi càn dương vị

Nữ gọi là khôn lý âm dương

Cảm giao biến hóa khôn lường

Phải chăng danh đạo biểu dương cơ mầu

Luận vô hữu cao sâu huyền bí

Tìm hữu vô yếu lý thậm thâm

Chủ nhơn ông thử kiếm tầm

Cho thông chỗ hữu khỏi lầm chỗ vô

Đuốc chơn lý viễn đồ soi sáng

Ngọn tâm đăng chói rạng bổn nguyên

Thiên Đình có Phật Thánh Tiên

Điều do hạt giống nhơn duyên cõi trần

Linh hồn mượn xác thân ẩn trú

Xác thân cần Phụ Mẫu dưỡng nuôi

Thâm ân ví tợ đất Trời

Ngọn rau tấc đất trên đời nặng mang

Đó là hữu trong toàn vũ trụ

Còn lý vô là thú tuần huờn

Khuyên người học hiểu căn duơn

Thực hành lý đạo lập trường tu thân

Lý đạo vốn muôn phần sáng tỏ

Bạch Ngọc Kinh một ngõ đi về

Độ đời nhờ đạo giác mê

Đạo không tư kỷ, không vì cá nhân

Lập Hội Thánh tinh thần cao cả

Dựng nền nhân công quả dạn dày

Việt Nam lịch sử hậu lai

Công phu lớn nhỏ trong ngoài đạo tâm

Bảng Cao Đài nghìn năm rạng rỡ

Cõi Dương Đông muôn thuở thái bình

Ban ơn cậy có huyền linh

Cho toàn dân chúng trong tình thương yêu

Giữa canh thâu tỏ nhiều tâm sự

Chúc chư hiền một chữ thành công

Chư đệ tử hưởng ân hồng

Nhớ lời thầy dặn hợp đồng lo tu.

Chư hiền đệ hiền muội! Cuộc lễ, sau phần chư tiên chứng chiếu, kể như đã hoàn tất viên mãn. Tiên Huynh nghĩ gì cuộc hội ngộ hôm nay, tuy giữa kẻ Tiên người tục, nhưng đã đánh dấu quý báu vô cùng. Để kỷ niệm một ngày đoàn viên nên Tiên Huynh đã luận đàm có nhiều phía cạnh để chư hiền muội hiền đệ cũng như đệ tử ghi lấy suy nghiệm làm tài liệu học tập trên bước đường tu thân hành đạo. trước sự xả thân giúp đời của chư đệ muội, Thiêng Liêng đều theo dõi hộ trì, bên cạnh đã có Tiên Huynh cùng các hàng tiền bối quá vãng dìu dắt.

                 Thi

Canh khuya lời dạy cũng vừa xong

Chứng chiếu đàn trung đã trọn lòng

 Từ giã ban ân chung tất cả

Tiên Huynh trở gót lại Non Bồng.

Cuộc đời có thạnh, có suy chiến tranh tiếp diễn ác liệt hơn, tết Mậu Thân năm 1968 máy bay bắn rocket vào nhà khiến cho hư hoại hoàn toàn, không những thế ông bị thương do một loạt lựu đạn gày trong nhà, khiến ông phải tản cư ra miếng đất mà thân phụ của Ngài là Chưởng Giáo Bùi Quang Huy dự định lập cơ sở xay xát trước khi gặp Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu và náu nương với người em là Ngài Bùi Hà Đông.

Trong thời gian này Ngài rỗi rảnh và viết kinh luận sách giải bày đại thừa tâm pháp, quyển đại kinh của nhà Phật là Pháp Bửu Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng, được Ngài giải rành theo lý đại thừa, phân tích từng đoạn chỉ rõ chỗ tối mật bí yếu của máy linh ngõ hầu giúp cho nhân sinh tầm tri học hỏi.

Đức Lục Tổ Huệ Năng về đàn kiểm phê kinh này và cho Thánh tựa như sau:

            Thánh Tựa

Huệ Năng Đại sư, Thầy mừng chung các trẻ

                 Thi

Huệ trí Pháp duyên giải Pháp Đàn

Năng nhơn Bảo vật thức phàm gian

Cho hay Đàn Bảo nhiều người giải

Tựa thể Kinh thường nhập thế gian

               Thi Bài

Pháp Bửu Đàn Hà Thanh diễn giải

Tột lý rồi khỏi phải nghi ngờ

Hạ nguơn mạt thế mong chờ

Đàn kinh xuất hiện mập mờ còn đâu

Như đêm tối canh thâu xuất hiện

Vầng kim ô đã quyện tối tâm

Phá đi tất cả lạc lầm

Đại thừa đúng nghĩa ngàn năm khó tường

Nay nhằm buổi trần dương quy nạp

Những linh căn duyên pháp thuận chiều

Gặp kinh gặp pháp đang nêu

Chần chờ chi nữa thời chiều rồi con

                Thi

Khen thay diễn nghĩa rõ ràng thay

BÙI họ giải ra phước đức dày

xứ đàn thiên đà rõ lộ

THANH thông kinh luận bởi viên đầy

Vào thời điểm này cơ đạo chuyển xoay, Ngài Bùi Hà Thanh phải thực hiện sứ mạng khai minh chơn lý ban truyền tâm pháp để đưa nhân sinh gia nhập đại thừa của thời đạo chuyển. Tất cả đều hướng về mục đích chấn hưng đạo pháp, dạy dỗ môn đồ, gom góp nguyên căn phúc tử, nâng cao trình độ hiểu biết về đạo lý vô vi, cùng lúc này Đức Ngôi Hai Giáo Chủ sắc lịnh tái lấp Chiếu Minh Đàn mở Đại Thừa Tâm Pháp vào ngày mùng 1 tháng 6 năm Canh Tuất 1970 để Ân Trên giáo truyền đại đạo.

Đáp ứng đúng yêu cầu nguyện vọng của nhân sinh, thời cơ đã đến nguyên căn tìm học tâm pháp càng nhiều Chiếu Minh Giáo Tòa thành hình để đào tạo, dạy dỗ cho môn đồ nắm giữ tôn chỉ, đường lối sứ mạng của cơ giáo đạo kỳ ba.

Thánh Ngôn Thánh Giáo ở tại Chiếu Minh Giáo Tòa được Ngài Bùi Hà Thanh minh lý, diễn giải theo Đại Thừa Tâm Pháp phù hợp với đường lối tu thân của thời mạt hạ, việc tu hành rất thực tế không còn là điều mơ hồ, ảo tưởng nữa, tự hành tự đạt, tự chứng đắc.

Để ban truyền chân lý một cách rộng rãi, năm 1972 Hội Thánh Chiếu Minh thành lập gồm Cửu Viện và ban nghành, hữu hình cơ đạo tương xứng với vô vi nội đạo. Những cuộc hoằng hóa vĩ đại khai mở cơ cứu thế kỳ ba, nào là hành hóa Đà Lạt, Cà Mau, Sa Đéc, Long Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sài Gòn, Vĩnh Nguyên Tự, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài, Huyền Minh Đàn, Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện...

Đây là ân lành cứu độ thời mạt pháp để cảnh báo nhân sinh hồi tâm tĩnh thức tu hành.

Một sự việc lớn lao và quan trọng đối với đạo pháp, Đức Thượng Đế sắc phong cho Ngài Bùi Hà Thanh ngôi vị Chưởng Giáo và cử hành Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai diễn ở Vĩnh Long trong vòng mười hai ngày.

Đại lễ được tổ chức từ ngày mùng 8 đến ngày 20 tháng 10 năm Giáp Dần 1974, đánh dấu Long Hoa Thí Trường đang khai mở để tiếp nhận thí sinh tham dự: thi dức, thi tài, thi điển quang, đó là ứng dụng thành quả công phu trau luyện, đo lường cường độ giác ngộ của nhân sinh.

Chung Đại Thừa đang điểm, trống Di Lạc đang khua, giục thúc réo gọi nhân sinh đi vào trường thi, chẳng nên chần chờ, do dự trước ngưởng cửa Long Hoa. Trong ngày đại lễ diễn khai các tôn giáo, phái chi, thiện nam, tín nữ đến tham dự đông đảo và nhiệt tâm, nhiệt thành đóng góp nhân, tài, vật, lực, vào cơ quy nguyên thống nhất của Đại Đạo (mấy chục ngàn người tham dự).

Bài diễn văn của Đức Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh

                     Đọc Khai Đại Lễ

                   Diễn Văn Khai Mạc

Đại Lễ Mừng LONG- HOA -HỘI Khai Diễn

Tại Trúc Lâm Thánh Đừc Thiền Điện (Vĩnh Long)

                Kính thưa: Chư Đạo Trưởng

                    Chư Thiện nam tín nữ

                       Quý quan khách

                      Thưa Chư Liệt Vị

Chúng tôi vâng lịnh Đức Long Hoa Giáo Chu,û cử hành đại lễ mừng Long Hoa Hội khai diễn.

Thật là một vinh hạnh cho chúng tôi

Thưa Chư Liệt Vị

Đời loạn vì thiếu đạo, nên muốn bốn phương yên ổn cần phải có đạo khắp nơi, một khi tất cả đều có đạo, đều hiểu đạo thì còn lo gì nhân loại chẳng bình yên.

Đạo là gì mà có một lợi ích vô biên, một tầm mức diệu dụng quan trọng đến thế!

Đạo là nguồn sáng thật cao

Rọi vào tâm não kẻ nào thiện duyên

    Theo Chơn Lý Vô Vi Tâm Truyền Bí Pháp, triết học gọi là Bản Thể, là cội nguồn Và

Đạo là lẽ sống trong thường nhựt

Dạy thế tu hành đúng kỷ cương

Theo quan niệm hữu hình ngoại giáo công truyền nói là hiện tượng, là ngọn nghành gồm cả thể và dụng, vô và hữu, tâm và vật cũng là trời và người hiệp tác trong một bộ máy hành tàng cả đạo- đời để sinh hoạt, tiến hóa.

Đạo là “cái” không thể nói được nhưng mà nói được vì nó là “cái không tên” mà đã mang vô số “danh hiệu”.

Không nói được là khi nó còn ở nguồn gốc vô vi mà nói được khi đã biểu hiện ra hình hài nơi ngọn nghành, biết được con cố gắng truy nguyêm sẽ biết được Cha.

Biết cả Cha-con là đã rõ thông Bản-Mục

Bản nguyên vô vi không nói được, không nghe thấy, sờ mó được vì nó vô hình, vô tình, vô danh, vượt ngoài ngôn ngữ, không lệ thuộc thời gian, không gian, vô sanh bất diệt, gắng gượng đặt tên là Đạo, là Vô Vi Tiên Thiên Đại Đạo, cũng nói là Huỳnh- Đạo...

Làm sao hiểu được đạo để có đạo! 
Nó là một thực thể, vô cùng phức tạp, vô cùng biến hóa, khó phăn cho ra mối, tầm cho ra gốc, nó thuộc Hình Nhi Thượng là của Trời, chúng ta là của đất, sống giữa thiên hình vạn trạng khác nhau, đã muôn đời quen thuộc với vật- tướng, chỉ theo đuổi cái học trục vật của hình nhi hạ, chưa từng nghe đến thượng đẳng Đại Học.

Biết rằng không nói được, nhưng phải thốt, phải thuyết để nói lên được nghĩa lý huyền nhiệm của đạo, vì thế phải mượn lời phương tiện để miêu tả ý đạo.

Có lời là vì ý, biết được ý phải quên lời!

Đạo cũng là tâm, nguồn gốc vô vi là bản thể thanh tịnh của tự tâm, là nền tản của vũ trụ.

“Đó” là một linh khí, rộng không biết bao lớn, mờ mờ, mịt mịt không biết bao lâu, được gáng cho cái tên là hư -vô -nhứt –khí, được nhân hình hóa, nhân cách hóa để xưng là Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn, là Đức Mẹ của muôn loài vạn vật và cũng là từ mẫu của tất cảcài gọi là Phật Thánh Tiên...v.v...Cũng là Nguyên Lý Đơn Nhứt tối sơ, do đó ta hạ trần, biểu hiện ra hình hài hữu thể và cũng nương đó ta trở về hư vô vị cũ để hoàn nguyên Bản Lai Chơn Thể nói là chơn tâm.

Nếu cái bản thể ấy, cái vị bàn cổ khổng lồ ấy cứ giữ y nguyên trạng, cứ nằm im lìm mãi mãi, không “vùng thở” để sinh hoạt thì đến ngày nay vũ trụ vẫn trống không, chết ngắt, chẳng có muôn giống nghìn vẻ sanh sống trong vòng Càn Khôn thì cái Đại Đại ấy, cái Ngôi Chí Tôn, Cao Thượng Đế, Đức Chúa Trời, Đức Lão Tổ, Đức Phật Tổ ấy chỉ là hư huyền lý thuyết mà thôi, chớ chẳng có thực dụng gì ráo.

Vì thế, từ chỗ hư vô cực tịnh (calme absolu) tự tánh phát sanh “động” để tạo và hóa, cái bản thể vô cực phóng ra một vầng Đại Quang Minh là Thái Cực, Mẹ sanh con, con nằm trong Mẹ: Khinh Khí trùm bao Nguyên Tử, như lúc bình minh, tranh tối tranh sáng, lúc lờ mờ vùng đẻ ra một khối sáng lớn duy nhứt, làm Chúa Tể thái dương hệ, cũng là nhứt dương, cũng là Thái Cực Thánh Hoàng.

Cái Đại khối hàm chứa cả âm dương nhị khí là Trời Đất chưa chia phân.

Đó là thời kỳ hỗn độn sơ khai, Đất -Trời một bọc.

Cái khối khinh khí nguyên tử dường như “bất khả phân” ấy có quyền năng không thể tưởng tượng nổi, có thể tạo lập tất cả vũ trụ trong chốc lát và cũng có thể hủy diệt tất cả trong nháy mắt.

Kinh Thánh Ki Tô giáo nói: ban đầu có đạo (Ngôi -lời, Parole), Đạo ở cùng Đức Chúa Trời và Đạo là Đức Chúa Trời

Đạo ấy, ban đầu ở cùng Đức Chúa Trời, muôn vật bởi Ngài dựng nên cả.

Trong Ngài có sự sống (La Vie). Sự sống là sự sáng của loài người.

Nếu chỉ có khối độc nhứt đơn thuần ấy thì làm sao Tạo- Hóa.

Vì vậy, cũng do lý tự nhiên, cái Đại Khối tự xoay vần, tự đung đẫy, cũng như cái sàng máy khiến nhẹ ở trên làm Trời, nặng rớt xuống làm đất, cũng là cha và mẹ.

Nhứt đại khối chia ra hai tiểu khối theo định luật hiệp rồi tan.

Đã đủ hai yếu tố sanh thành của cơ đạo, hai tiểu khối là càn- dương, khôn- âm, âm dương cứ mãi vầng xoay, Trời Đất lại giao tiếp nhau do luật tan rồi hiệp để sanh cái thứ ba là vật.

Việc này là điểm mấu chốt tối yếu của thiên cơ tạo- hóa được biểu tượng ra bằng hình Hai Con Rồng đâu đầu, sanh châu ở giữa và được chứng minh bằng việc nam nữ giao hòa sanh con.

Con là sợi dây liên lạc, cái gạch nối liền giữa cha mẹ, cái kết quả của tình thương.

Đây là một cuộc biến thiên vĩ đại ở nơi trời cũng như nơi người, đất lỡ trời long, càn khôn nghiêng ngữa, cũng là hủy thể để biến thể.

Bản thể tiên thiên nhẹ nhàng, đồng trinh trong trắng, thuần tịnh kiết bạch đã mất để hóa ra hậu thiên nặng nề, trắng đen lẫn lộn, chánh tà chơn giả hổn hợp.

Cái đại khối chơn dương thần hỏa là linh quang tánh của vũ trụ đã phân hóa và ẩn tàng trong ba hạ thể, biểu lộ ra hình hài ba bực là Nhựt- quang (Phật) cái sáng của Mặt Trời, Nguyệt Quang (pháp) cái sáng của Mặt Trăng, Tinh Quang (tăng) cái sáng của Sao, làm tam hồn cõi hư không vũ trụ cũng là bộ ba nhứt khí tam thanh, Phật Đạo gọi là Nhứt Thể Tam Thân Tự Tánh Phật.

Đã gầy dựng được tạo hóa chi cơ của vô vi đại đạo, từ chơn vô sanh diệu hữu, biểu hiện ra hình hài đủ bản thể và hiện tượng mà hình hài đây là thần- thể (corps- spirituel) của tâm linh vũ trụ, chưa vượt vòng đại đạo là thiên thượng ra ngoài sanh vật tướng (corps matériel) gầy dựng thế gian tiểu đạo nơi địa cầu là thiên- hạ.

Vóc sáng của mặt trời là thiên tâm, của trăng là địa tâm của tinh tú trùng trùng điệp điệp ánh sao vàng, xanh, đỏ là nhơn tâm.

Đã đủ tam tài thiên- địa- nhân của tâm linh thượng giới, cũnglà ba ngôi thiên tôn, cũng gọi tam bửu nhựt- nguyệt- tinh.

Thấy được, hiểu được vài nét phác họa của việc tạo thiên lập địa, sanh người nơi cõi hư vô để suy tư tìm hiểu cõi hữu hình vật thể là cái chứng bằng của thực hữu.

Máy tạo vần xoay không ngừng để hoàn thành cuộc đại hóa của đạo tánh, một mảnh nhỏ tách rời khỏi đại khối, quây tít trong không gian tự quấn vào mình nhiều lớp vỏ bao bọc bằng nhiều hoá chất đủ sức nặng đến mức độ thích hợp hình thành địa cầu, đúng vị trí đã định.

Chuyện Tây Du nói: một mảnh lửa than trong lò Bát Quái của Thái Thượng Đạo Tổ bị Tề Thiên đá văng ra khỏi lò rơi xuống hồng trần thành Hỏa Diệm Sơn, cái khối lửa trong lòng trái đất. Đã ra khỏi lò, dĩ nhiên nguội lạnh lần lần, biến lớp võ của trái đất hóa-thành Hiện tượng của Địa Cầu. Thành phần linh hồn của Địa-Cầu cũng gồm ba ngôi báu là Lửa, Gió, Nước.

Có Trời có Đất mới sanh vạn vật theo đúng một quy mô tổ chức của sinh lý mà loài người là linh hơn hết là chúa của thế gian nhờ thụ bẩm nơi trời và được cấu tạo đầy đủ giống đồ hình của trời đất được gọi là trời con, là tiểu thiên địa.

Nơi thế gian cái khó được nhứt là làm người, đứng làm người cái khó được là đạo.

Con người với một xác thân do âm dương hậu thiên là cha mẹ đào tạo và một linh quang tánh trời ban gồm cả hữu vô, nội ngoại nhị thể.

Như thế, tự mình do đạo sanh thành, dưỡng dục, bảo tồn, tự mình đã có đạo.

Đã quên đạo, mất đạo lúc nào mà bảo phải hiểu đạo để có đạo?

Điều này sẽ được giải bày thêm trong những giờ thuyết đạo và lần hồi thu thập trong trường đạo, nơi đạo viện để tỏ ngộ.

Mãn đời cùng kiếp nói cũng chẳng rồi huống là trong phạm vi hạn hẹp của một bài diễn văn, một buổi nói pháp như Đức Thích Ca đã dạy: (ta nói với các ngươi như nắm lá trong tay còn sự hiểu biết của ta như “rừng lá”, củng như Chúa Jésus khẳng định: nếu phải nói hết mọi điều, ta e cho thế gian nầy không để chỗ chứa. Ta chỉ dạy các ngươi những điều các ngươi có thể lĩnh hội được mà thôi.)

Tất cả là đạo, đạo là tất cả cũng như tất cả đều do tâm mà sanh cũng do tâm mà diệt.

Có câu châm ngôn Tây Phương: ((Hãy tự biết mình, rồi ngươi sẽ biết được Thượng Đế và vũ trụ.))

Phải biết mình từ đâu đến, đến để mà chi rồi sẽ đi về đâu?

Chắc chắn sẽ được trả lời dễ dàng và mau lẹ: (Ta từ trong bụng mẹ mà ra chào đời tại thế gian này với một xác thân và một cái trí hóa để lớn lên mưu sinh, lập gia đình, lo cho đủ tiện nghi ăn, mặc, ở rồi già, rồi chết, rồi trở về lòng đất.))

Thấy biết như thế phạm phải vào lời quở trách của Chúa Jésus: Tại sao ngươi không hiểu được “lời của ta?” Ta thuộc về Cha ta, ngươi thuộc về Cha ngươi. Ta học nơi Cha ta, ngươi học nơi Cha ngươi. Ta là của trời, ngươi là của đất và hể nói ra rặc ròng thuộc về đất.

Cái nguồn sanh chẳng phải ở nơi ngọn ngành hạ giới là “bụng” mà là ở trên “đầu” là thượng giới của cha mẹ, nên kinh sách nói con người từ Thiên Ngôi, Tiên vị mà xuống hồng trần.

Các vị Đại Giáo Chủ xưa nay chẳng một ai dám công khai tiếc lộ cái “ cái cơ linh” nầy, chỉ dùng ẩn ngôn dụ ngữ mượn nhân, vật của câu chuyện thần thoại để mô tả “một cuộc mây mưa” do Rồng dấy mây, Hà Bá dâng nước, Thiên Lôi làm sấm sét chớp giăng, phong ba thổi gió đồng thời Rồng hút nước phun xuống làm mưa.

Thiên cơ ẩn ẩn nhơn nan thức,

Bất thị nguyên nhân bất đắc văn.

Phàm nhơn đắc đạt kỳ trung ý,

Tiện thị Long Hoa Hội Thượng Nhân!

Chúng tôi chẳng dong dài lý luận vì chư liệt vị đã mệt tai, mõi lưng trông chờ, bắt đầu chán nản vì đến dự Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai diễn mà tới giờ chẳng nghe đề cập đến chỉ nói khai-thiên, lập địa, sanh người của việc sáng tạo thế gian của Đạo theo sáng thế ký trong kinh chớ chẳng nói đến tận thế của Long Hoa Hội mà nhân loại trông chờ đời này qua đời nọ, hôm nay mới thật sự khai diễn.

Thưa chư liệt vị!

Chúng tôi chỉ đổi danh từ Đạo ra Long mà thôi và Long Hoa ra Đạo Tánh thì thấy ngay liền Cặp-Mẹ-Con ấy và tôi chẳng rời Tâm-Thể là Long, Tánh-dụng là Hoa khi nói Đạo. Muôn ngàn kinh sách cũng như Sám giảng, có mục đích “Minh-Tâm Kiến-Tánh” không ngoài “ Thân-Tâm” con người.

Đứng trên cương vị Vô Vi Bí Truyền Tâm Pháp tôi cũng nói ngay vào Tâm Tánh cũng là Long Hoa trong Tiểu Vũ Trụ để con người tự biết mình, lẽ sống, chết, thành, hoại của chính mình hầu tìm phương tự tu, tự hành để tư giải thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn của sinh diệt, trở về hiệp nhứt với Bản Nguyên vĩnh cửu trường tồn, bất di bất biến.

Đời sống của xác thịt là giả tạm do hữu tình hữu dục mà sanh thì phải hữu hoại thì tham vọng , nhơ dục của lẽ nhân quả.

Đời sống của linh hồn là:

Đời sống trường tồn mới đáng kể mà thôi,

Giữ tâm tánh đứng ngồi không dấy động.

Linh hồn do nguồn sáng vô sanh hữu mà có, nên bất tử , vô sanh cũng chẳng phải là không sanh gì hết, vô tử cũng chẳng có nghĩa là không chết.

Con người gồm cả giả thiệt thì tất cả là Ta, Ta là tất cả, tùy ta trau luyện thanh lọc để được toàn chơn vì ta đang sống giữa vạn ban giả hữu nên phải mượn hữu tìm vô, đời hoàn đạo.

Lục Tổ Huệ Năng có kệ rằng:

Cả thảy không có thiệt Chẳng lấy cái thấy nơi thiệt

Bằng thấy nơi thiệt ấy Thấy ấy điều chẳng thiệt

Bằng hay mình có thiệt Lìa giả mới lòng thiệt

Lòng mình chẳng lìa gỉa “ Không-thiệt” chỗ nào thiệt

Cái tự hữu của Ta mới là Chơn-Thiệt, ngoài ra cả thảy vạn hữu đều không thiệt. Vậy hãy trở về với Ta, tìm Lẽ-Sống chơn thật trong ta là Đạo Tánh, là Ánh Sáng Đạo Vàng là Long Hoa rực rỡ.

Long Hoa, Long Hoa Hội, Long Hoa thí trường là gì? Hai con Rồng đâu đầu, hả miệng giao nhau, sanh trái châu mà đa số con người xưa nay đều thấy nhưng ít ai hiểu biết được đạo lý ẩn tàng trong hình thức ấy nên kinh sách đã nói: chỉ có bực chơn tu đắc đạo mới thấy được Long-Hoa và Trời-Phật Thánh-Tiên mới làm được việc khai diễn Long-Hoa Đại Hội để Di-Lạc Thiên Tôn, Lomg Hoa Giáo Chủ chấm thi, thanh lọc sàng sảy lựa chọn giống tốt đủ đức tài gầy dựng Thượng nguơn, lập đời Tân Dân Minh Đức cũng như lời kinh Thánh chỉ có môn đồ ưu tú của Chúa mới thấy biết được sự chết và sống lại của Jêsus-Christ trên Thập Tự Giá.

Long là hư danh, con Rồng là giả tướng, tưởng tượng đặt ra, vẽ vời ra chỉ linh vật của thần thoại năng biến, năng hóa phát gió, sanh mây, làm mưa, biểu danh-biểu tượng của ngôi Vua Chúa như Long Nhan, Long Thể, Long Bào, Long Xa... để miêu tả đạo lý.

Con Độc Long ngâm Trái Châu
Là Thái Cực Thánh Hoàng, khinh khí hàm nguyên tử, tròng trắng bọc tròng đỏ hột gà, hạt Bồ Đề ngậm mộng giác là Nhứt Nguyên của Đại Đạo.

Hai con Rồng là Âm Dương đã chia phân là căn nguyên của vạn vật đã nói trước kia.

Âm Dương nhị khí giao nhau sanh một vật sáng chói như âm dương điện khí câu lại sanh điện quang trong hư không của bóng đèn điện theo công thức Tiên Thiên của Tâm Linh chơn tạo hóa. Đó là hai con Thần Long ngóc lên giao đầu trên Thượng giới tâm não, mở cửa Thiên Đường có đạo do đây, nơi đây có ánh sáng là cõi sống.

Nam nữ giao hòa âm-dương vật là hai con thủy long lộn đầu phủ lộng nhau ở hạ bộ như hình vẽ mặt trăng, sanh một điểm tà dương, lìa cha nhập vào lòng mẹ hiệp với điểm tà âm theo công thức hậu thiên của nhục thân giả tạo hóa.

Mất đạo từ đây nơi đất u minh là cõi chết

Việc làm này của người ngọai giáo bị Đấng Christ quở nặng: (sao các ngươi đem “con trai” bán qua bên kia địa Trung Hải? (dục hải)

Điểm âm dương gặp nhau là Long Hội cũng có tên là Long Hổ hội một cơn biến động vĩ đại, nghiêng ngữa càn khôn đảo lộn tối sáng, sanh diệt thay nhau, mất còn của nhân lọai, thành hoại của vạn vật...

Chịu luật tương đối là phải vậy chớ thật ra với chơn lý tuyệt đối thì chẳng có gì hẳn là diệt, chẳng có gì hẳn là sanh cả, chỉ là một cuộc biến thể của thực tại mà thôi: sanh cái này diệt cái kia, sanh cái kia diệt cái này, sanh sanh diệt diệt chẳng dứt, như hết tối rồi sáng, hết sáng rồi tối của bình minh và hoàng hôn vậy. Với con người cái khoảng thời gian từ sanh đến diệt cũng nói là sáng thế đến tận thế, luận treo trần tướng mà nói, được chia ra ba giai đoạn gọi là Tam Nguơn, đủ tam nguơn có một cuộc Long Hội. Con người thuộc tiểu kiếp của tiểu thiên, một vòng 60 năm theo âm lịch của Nguyệt Luân.

1- Thượng nguơn: từ một đến 20 tuổi, tuổi xuân thời vui tươi (âgede joie) dồi dào sức sống với tánh bản thiện nhơn sơ, do lẽ Thành của con đường lên để tiến hóa,

2- Trung nguơn: từ 20 đến 40 tuổi, trung bình của đường ngang, gọi là Trụ, lẫn lộn vui buồn không mấy rõ rệt,

3- Hạ nguơn: từ 40 đến 60 tuổi, con đường xuống dốc của lẽ Hoại, mòn lần ánh sáng dương quang là mạt pháp để huờn không, cái chết xuất hiện thay thế, một cuộc biến thiên hãi hùng rùng rợn đã đến.

Long Hoa Đại Hội của tam nguơn mạt pháp nơi người là đây.

Đời người như thể là trăng

Bắt đầu trăng nhỏ rồi trăng lần già

Khi tắt lặng, thế là đã hết

Rồi phục huờn cõi chết, đào sinh

Thấy chăng “bánh phép” vô hình?

Chuyển luân mãi mãi muôn nghìn khổ đau.

Con người đã trải qua bao tiền kiếp, biết bao lần sinh tử, tử sinh thì có biết bao lần Long Hội nhưng nào ai rõ đặng, đành chịu buông mình theo dòng pháp luân vạn hữu, lưu lẳng sanh tử thường trầm khổ hải, vĩnh thất chơn đạo, mất hẳn đường về vì không biết lẽ sống duy nhứt chí chánh- chí chơn của Đại Đạo.

Biên khu luân lạc từ bao

Làm sao thấy được đường vào trung dung

Đường trung dung linh lung ẩn khuất

Nẻo Bồng Lai gai gấp lau che...

Thế giới thiên hình vạn trạng nơi quả địa cầu thuộc trung kiếp của trung thiên, một ngàn tiểu thiên mới bằng một trung thiên vì vậy thời gian của trung kiếp phải ngàn lần lâu hơn và được mô tả bằng hữu lượng số là 129.600 năm.

Hiểu theo vô vi bí số của đại thừa tâm pháp thì không hẳn đúng như vậy.

Cái vòng đại tuần hoàn đã định cho quả địa cầu đã đúng chu kỳ, trở về vị trí củ của khởi điểm, đương nhiên Long Hoa Đại Hội nơi hồng trần ngoại cảnh phải khai diễn, không sớm cũng không muộn được, dù là một ngày, một giờ.

Khai diễn mà chi cho nhơn loại phải chịu cảnh diệt vong, nhà không người ở, điền vô nhơn canh, lộ vô nhơn hành của ngày “tận thế” tuyệt âm dương, tối đen mù mịt, đất sụp nước tràn, mưa dầu nắng lửa, ác thú đầy đường, sát hại sanh linh, chiến chinh tàn phá.v.v...và v.v...kể sao cho hết theo đã suy diễn và giải thích của ngoại giáo chuyên môn chấp lời chấp sự.

Vì thế cách đây trên 40 năm, gần đến Tuất –Hợi nhị niên chúng tôi có hỏi bề trên về Long Hoa Hội và được nghe:

Long Hoa Hội thế bàn thế luận

Máy thiên cơ nào thuận tâm trần

Nào ai rõ đặng cân phân

Hành tàng hư thực là gần là xa.....

Và sau nầy khi mấy lần Tuất, Hợi đã qua và được dạy:

Sợ chi tận thế quá xa xôi

Chỉ sợ tâm ta chẳng liệu rồi

Chơn Tánh lấp xa chôn nẽo thiện

Sợ chi sanh tử đã xong rồi

Duyên lành Trời định từ khi trước

Lo sợ mà chi, chuốc hại thôi

Đáng để ta lo là Trí Não

Sao cho yên tịnh vậy mà thôi

Tâm động, toàn thân điều động, Địa chấn tất cả đều rung rinh.

Biết rằng Long Hoa Hội phải khai diễn nơi Hoàn cầu chung của toàn nhân loại, tuy chưa biết chừng nào nhưng những bậc ưu thời mẫn thế đều thấy rõ triệu chứng đi đến chỗ diệt vong sụp đổ ấy cũng như nơi Tiểu Địa Cầu của chính cá nhân mình vì sinh lực là Ánh Sáng mòn lần từng phút, từng giây, chắc chắn sớm muộn gì cũng đi đến chỗ tuyệt khí, hoặc do bất đắc kỳ tử, thân thể bị phá hoại, hoặc do cuộc đời đến buổi hoàng hôn, ai người thiện trí thức nên gấp rút dừng chân, quày đầu hướng thượng, chẳng để Thủy Long Hà Bá lộng quyền làm mây, làm mưa theo phàm pháp của tà tâm, tục tánh để rồi do đó tiếp tục sanh muôn ngàn hành động quỹ yêu nữ. Cố lấy lại cho kỳ được chủ quyền vua chúa sai khiến chúng “nghịch hành” biến giả thành chơn, cải tà quy chánh, để hóa Long Thần Hộ Pháp giúp sanh mưa phép, quét sạch lòng phàm để gieo giống “Thánh”

Đề Hồ Thủy tam thiên sái

Pháp võ tân phân Địa Địa thanh

Nhân đất lòng gặp mưa phép hành giả dễ dàng cày bừa, bỏ hết gốc cỏ dạy đã choán tâm điền nhiều đời, hăng say đặt Bồ Đề Đạo chủng vào cũng được mô tả là Giống Rồng Tiên sinh sống trong Nam Địa (Tâm)

Ngày đêm siêng năng miệt mài trong Long Hoa nông trường hạt giống nẩy mầm, sanh cành lá thành Long Thọ, đơm hoa rực rỡ.

Còn chi vui mừng hơn, công khó đã được đền bù bằng một Linh Châu bảo vật khác nào đêm khuyết Trăng Rằm, huê phòng với Hằng Nga đôi tám, đầy hy vọng tươi sáng nơi thành quả tương lai mai sau.

Huệ tâm đã phát trực giác đã khai tự Hành Giả đã đủ điều kiện dự khoa tràng Long Hội, tự có Linh Châu Minh Chiếu, tự đắc tánh Như Lai, tự giáo dục chúng sanh lòng mình, tự mang đến cho tâm mình cái Chơn Thường Diệu Lạc thì tự mình gồm đủ thực chất của danh từ Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Thiên Tôn, cái tự tánh chơn Phật, tự hữu, hằng hữu, hằng thường của chính mình thì còn gì phải lo sợ đến tất cả giả hữu ngoài mình. Dù cho quả Địa Cầu có tan thành bột cũng chẳng có gì phải e ngại, vì đó là lẽ đương nhiên của biến và hóa.

Mặc dù đang sống trong Hạ Nguơn, ta vẫn là con người của Thượng Nguơn Thánh Đức, vì đã làm được việc sanh lại để vào nước Thiên Đường của Công Giáo.

Đã tự giác xong, giờ còn mang xác thịt phải giác tha để trả nợ pháp vì ta đã rõ tận tường sự tương liên, tương quan của vũ trụ vạn vật.

Long Hoa Đại Hội là một đại họa, đại khổ đối với người vô đạo, thiếu đạo, giả đạo như cái chết đối với nhân loại, cái vào tù của mê hồn, cái hủy diệt của gia đình bị hỏa hoạn, cái xóa tan thành thị bị bôm nguyên tử v.v...

Thật là rùng rợn kinh khủng nhưng đối với người có đạo, đắc đạo, thành đạo thì trái ngược hẳn. Thế cho nên đã có lời chỉ trích (chúng tôi và nhơn sanh khiếp đấm, lên ruột khi nghe nói Long Hoa Đại Hội khai diễn và các anh lại “mừng” là nghĩa lý gì chứ?)

Vì lợi ích vô biên chẳng riêng về hiện tại mà cả muôn đường tương lai nhân loại cần phải có đạo.

Đạo còn nhân vật còn, đạo tuyệt nhân vật mất. Long Hoa Hội khai diễn với hình thức tổ chức hôm nay, cốt ý báo tinh cho toàn thể nhân loại không phân biệt phái tri, tôn giáo sắt tộc, biết Long Hoa học đường đã khai giảng, Giáo Chủ Long Hoa đã hạ trần đem bí pháp tâm truyền ra chỉ dạy hầu nhân loại hữu duyên có vừa đủ thời giờ để học đạo, hành đạo, trau luyện tâm tánh, vào dự thí trường trước khi có cuộc hủy diệt lớn lao rùng rợn để chọn lọc những ngôi sao sáng, những hạt giống chơn nhơn cho đời Thượng Nguơn Thánh Đức.

Thưa chư liệt vị!

Chư liệt vị mang cái “Đạo” đến trước chúng tôi, tôi đem đạo để nói với liệt vị thì đạo đâu ngoài chư liệt vị, mà đạo cũng không phải do tín ngưỡng mà có nhưng người muốn đạt đạo phải trọn lòng tín ngưỡng là đức tin.

Đạo đã biểu hiện ra hình hài và được hình thức hóa để thờ phượng tôn sùng cúng bái, cầu nguyện vái van theo tín ngưỡng.

Mược cụ thể hóa đạo bằng hình thức để tìm cái lý Duy Nhứt của đạo thì sự thờ phượng mới có giá trị, nhưng giá trị đó chỉ bất biến trong tâm hồn giác ngộ mà không phải ở chỗ vọng ngoại tìm cầu.

Tôi tin chắc rằng Chư Liệt Vị hiện diện hôm nay đều là bậc Đại Linh Căn phúc tử được Thiêng Liêng chuyển tâm đưa đến, đã có một trình độ hiểu biết cao siêu vượt quá xa nấc thang phổ độ của tôn giáo, đang cần đến cơ siêu thoát của đại đạo để nhắm hướng tiến đáo bản lai, chẳng còn chấp giáo, chấp tướng, chấp danh nên chúng tôi đã đem đại lý ra bàn cùng chư liệt vị.

Công cuộc Phổ Độ Kỳ Ba của Đại Đạo Cao Đài đi đến chỗ Thượng Thừa Dốn Giáo, dù phải tạm mượn hình tướng để lập thành một tổ chức to tát, biểu tượng cho sự tổng hợp dung hòa của vạn giáo từ xưa vào một Lý Duy Nhứt là Đại Đạo thì hình tướng đó phải được người Thiện Tri Thức, bậc tu hành hiểu bằng một giá trị đặc biệt, một lý siêu việt vô nghị công đức mới có thể thấy được đạo lý trong hình tướng.

Thưa Chư Liệt Vị

Đã có biết bao nhà thông thái, Bác Học, Đại Triết Gia đã cố tìm một lối Nhân Sinh Quan để đem lại an vui hạnh phúc cho nhân loại có biết bao nhà lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo các cơ quan từ thiện quốc tế cố tìm một giải pháp ổn định thế gian, cố cầu nguyện van vái cho hòa bình thế giới, cứu khổ ban vui cho dân tộc nhưng đều hoài công, không đạt mục tiêu mong muốn, thì phận nhỏ bé của chúng tôi đâu dám ngóng cổ rùa, trương miệng ếch van cầu kêu gọi gì thêm vì Long Hoa Đại Hội có thành công hay chăng đều do huyền năng tối thượng của Long Hoa Giáo Chủ nên chúng tôi lặp lại đây một đoạn lời dạy của Di Lạc Thiên Tôn tại Đà Lạt cách đây một năm cho chư liệt vị lấy đó suy nghiệm, xem như lời dạy chung cho tất cả.

                 Thi

Di giáo ngàn xưa hậu mạc đời

Lạc bang Nam Việt đó là nơi

Phật lai gầy dựng Tân Dân Thế

Vương chủ trị đời hưởng thảnh thơi

Vì một điều tối quan trọng nên bần đạo lai lâm để khải giáo Chư Linh Căn Phúc Tử, cùng các vị Lãnh đạo tôn giáo để kịp thời thi hành những đều cần thiết cho Cơ Đạo tiến hầu kịp Hội Long Hoa.

Hội kiến cùng nhau diễm phúc thay!

Thời cơ đã đến ngộ nhân tài

Lo chi Long Hội không thành tựu

Nam nữ Hiền Nhân hãy góp tay!

Này chư hiền nam nữ gọi chung là như thế, chớ bần đạo cũng rất ái ngại vì tất cả chư hiền hiện diện chẳng phải là những vị thường nhơn điều là những vị hữu căn đa phúc. Bần Đạo rất hân hoan khi nhìn thấy chư đạo tâm nữ phái cũng hết lòng lo Đạo cứu giúp nhân sinh chẳng kém thua nam phái, đó là một điều lành vì bất luận tôn giáo, phái chi vị nào biết tận lòng vì đạo đều là những người Dũng Tướng kỳ ba của Long Hoa Hội. Bần Đạo cũng nhận thấy một điều là tất cả các Thiên Mạng nữ nam đều có chung một tâm hồn hòa hợp tiến tu, nhưng rất tiếc là chưa tìm được cơ duyên để hội hiệp cùng nhau nên mãi đến giờ nay vẫn còn đơn phương lo liệu. Mọi hành vi lo đạo của Chư Thiên Mạng nữ nam, Bàn Đạo đều nhìn thấy cả, rất muốn chỉ bảo cho chư Thiên Mạng một đường hướng hiệp hòa cùng chung nhau để cùng nhau tiến bước trên con đường đạo hầu có nhiều hiệu quả hơn xưa, nhưng vì thời cơ chư đến, chẳng dám làm sái máy trời nên đành phải lẳng lặng đợi chờ cơ thiên dần đến. Nay đã tới lúc Bần Đạo phải chỉ rõ cho chư Thiên Mạng nam nữ nơi đây được biết là những cố gắng đắp xây Đạo Pháp bởi nơi đây cũng là một vùng linh địa, phải theo đường hướng Bần Đạo chỉ dạy để được mọi điều thuận hợp về đối nội, chư Thiên Mạng lãnh đạo các cơ quan tôn giáo hãy giữ nguyên tôn chỉ mục đích của mình và phát triển cho Thiện Mỹ hơn lên. Phần đối ngoại phải xem các tôn giáo khác, chi phái khác, môn phái khác như “Một” vì tất cả đều chịu chung một sự kiểm soát và bảo trợ của Bần Đạo là Giáo Chủ Long Hoa Hội, Bần Đạo phải gánh giác tất cả các công việc tiến thối của các tôn giáo, chi phái, môn phái. Nhìn thấy Chư Thiên Mạng nữ nam nơi địa phận này đã rất nhiều kỳ công với đạo, đã tận lòng cùng đạo nay đã đến cơ duyên, Bần Đạo lai lâm khải giáo để Chư Thiên Mạng nữ nam thấu hiểu tất cả các tôn giáo đều là một mục đích gom góp các Thiên Nhân để mang về.

Long Hoa Hội ứng thí

Các Thiên Mạng nữ nam nơi đây cũng chung một trách vụ, như các Thiên Mạng khác ở khắp nơi cũng cùng chung một trách vụ. Lại thêm một điều hệ trọng nữa là Bần Đạo xét thấy trong số các Thiên Mạng nữ nam hiện có nhiều vị đã đến một căn cơ thuần thiện, thuần mỹ nên lần lần khải giáo nầy Bần đạo phải dời toàn bộ Chiếu Minh Phái-Vô Vi Tam Thanh đến đây để chư Thiên Mạng vị nào có hợp duyên phúc đang mong chờ một Diệu pháp Bí Truyền thì tiện đây Học Hiểu để Tri Hành. Bần đạo không dám nói ra những công dụng hữu ích của Bí Pháp Chơn Truyền vì sợ rằng: trước một kết quả phi thường, trước một điều Lợi Ích vô biên rồi có một số đạo tâm thiếu phúc thiếu căn vì mê thích điều Lợi Ích tối thượng đó rồi không suy xét chính chắn, chấp nhận học đạo để rồi thi hành không trọn thì hậu quả do Bần đạo phải gánh chịu, nhưng Bần đạo cũng không thể lặng thinh đối với chư Thiên Mạng hữu căn đa phúc.

Như Chư Thiên Mạng đã rõ: rồi đây lúc mạt đời, Long Hoa khai diễn, thân phàm xác tục không tài nào chịu nổi với bao trược khí nặng nề của lúc thiên ám địa hôn nên phải cậy đến Bí Pháp Chơn Truyền để nương thân tồn tại. Các hiền nhân Thiên Mạng giỏi bí pháp chơn truyền còn có thể sử dụng lão luyện công phu để cứu nhân độ thế, dìu dẫn linh căn trong những lúc thảm sầu nhứt của cõi trần. Xét riêng về điều lợi ích của pháp đạo vơ vi còn cho con người một lối thoát linh hồn là sau khi luyện thành Kim Thân Xá Lợi sẽ được siêu xuất tam giới khi thành đạo mà khi còn xác tục thì quán thông sự vật do huệ tâm, huệ nhãn tạo ra như Hà Thanh hiện tại.

Thưa chư Liệt vị!

Như hầu hết đều biết, sở dĩ xã hội ngày nay hỗn loạn điêu linh sắp đến miệng hố diệt vong của Tử Thần là vì lòng người bất định Bản Thể thanh tịnh của Bình Dương bị cuồng phong Tâm khí dấy lên, biển lòng sóng dậy biến thành dục hải. Người đời như thuyền con, thế nào vững vàng với trùng ba bể cả, không cưỡng nổi phải phó mình cho sóng dập gió dồi, hải triều lôi cuống đến đâu hay đó. Vạn sự do tâm, Cá nhơn sống động, nhơn loại sống động.

Một Đại triết gia đã nhận xét chí lý: (thế gian một nhà thương điên mênh mông). Làm sao chửa bệnh thần kinh điên cuồng loạn óc của thế nhơn cho được?

Đã là tâm bệnh thì phải nhờ Thần Dược của Tâm Pháp Bí Truyền mới kham, vì tâm là tối bí tối mật.

Các vị Thánh Tổ tiền bối đã tìm được tự chữa lành tất cả tâm bệnh tánh tật như nào là Huờn Hồn Đơn của Thái Thượng Lão Tổ, Định Phong Đơn của Linh Khiết Bồ Tát, Định Hải của Nhiên Đăng Cổ Phật, nhưng con người chẳng chịu dùng vì rất đắng miệng, khó nuốt trôi hoặc có muốn dùng đi nữa cũng chẳng biết xuất xứ của Linh Đơn chánh hiệu “Rồng-Tiên” vô vi vô ảnh.

Vì lòng từ bi vô lượng không nỡ để cho nhân loại bị diệt vong trọn vẹn nên Đấng cứu thế Di Lạc Thiên Tôn hạ trần có Thần Y Biến Thước cùng Thần Tài Nam Quốc túc trực để cứu khổ cho chư linh căn bằng cách chữa lành vô minh phiền não bệnh với thần y và ban vui với tài thần bảo vật là Long Hoa Linh Châu viên minh tánh thể, trở lại nguồn sống ban sơ, làu làu rạng rỡ nói là vào Long Hoa Hội gặp Phật Vương cũng là Minh Tâm Kiến Tánh.

Muốn hiểu được chơn lý của Thánh Kinh hiền truyện phải có một trình độ tương đương với tác giả của nó. Phải có một sự hiểu biết cao siêu mới thấy được Bản Nguyên vô vi, Nhứt Như Nhơn Thể thì sự chia rẽ thù hềm giữa nhơn loại cùng tôn giáo nầy, tín ngưỡng nọ mới chấm dứt. Biết được vô vi chi lý thì sự dị biệt hình thức còn có nghĩa lý gì với tinh thần đạo pháp tự không chia phân, không giới hạn.

Khi ấy và chỉ khi ấy, Đại Đồng Huynh Đệ, hòa bình hạnh phúc không cầu vẫn đến, hất hủi cũng ở lỳ.

Thưa Chư Liệt Vị!

Đến đây, tôi cảm thấy ý nghĩa của cuộc đại lễ đã được phần nào sáng tỏ vì:

Nói rộng khắp muôn bề

Đem về gồm một lý

Phiền não tối trong nhà

Sáng soi nhờ Tánh Trí

Tôi tuyên bố khai mạc và mong mỏi được chư liệt vị, cùng tôi cọng hợp, càng nhiều càng hay cho cuộc hoằng dương chánh pháp hầu sớm hoàn thành sứ mạng chung đã được giao phó.

Xin cám ơn chư liệt vị

Ơn trên phò hộ chúng ta

“Đờn Không Dây” gảy khó ai nghe

Chỉ có tri âm mới bạn bè

Biết gảy đúng thời, nên bản nhạc:

Độ hồn sanh chúng thoát trần mê

Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát

Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Cứu Thế Di Lạc Phật Vương

Tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện

Ngày 09 tháng 11 năm 1974 hồi 10 giờ

Đúng lúc này Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật giáng cơ ban ba tràng thuyết pháp để truyền dạy cho nhân sinh hiểu rõ việc cần phải làm trong kiếp vi nhân, tìm cầu chân truyền tâm pháp để hành trau mới thoát khỏi lần gạn lọc sau cùng và tham dự vào đời Thượng Nguơn Thánh Đức.

BÀI THUYẾT PHÁP THỨ NHẤT

Bần đạo đại hỷ chào mừng chư liệt vị :

Đây là buổi thuyết pháp đầu tiên của Bần Đạo, chư liệt vị cũng như hầu hết tất cả các sinh nhân ai ai cũng đều trông mong sao cho được an lạc, sao cho đừng đau khổ. Điều đó là điều mà Bần Đạo lãnh sứ mạng để làm, Bần Đạo phải làm sao cho thế giới nầy được an vui. Điều đó mọi người ai cũng tưởng là thiên nan, vạn nan, nhưng kỳ thật chẳng khó khăn gì!.

“Khi cơ trời đã đến cũng như giữa đêm đen tối ước muốn thấy mặt trời là một điều rất khó. Nhưng đến lúc đêm đã tàn thì trong chốc lát nữa tự nhiên cũng thấy được mặt trời. Bần Đạo không phải là Đấng Hóa Công, cũng không có phép mầu biến cải được máy trời. Bần Đạo chỉ lãnh lệnh thuận theo thiên cơ mà làm. Thế giới nầy khổ đau sắp dứt và sẽ được tái lập một cõi đời an lạc trong lành.

Bần Đạo được lệnh xuống trần gạn lọc thiện ác, vì lòng từ bi Bần Đạo không thể ngồi yên thưởng phạt, nên cất tiếng kêu gọi sinh nhân hãy cố gắng làm lành, hãy tránh xa điều dữ, vẫn còn đủ thời giờ để cho chư sinh nhân chọn lựa, lành sẽ tồn tại, còn dữ sẽ diệt vong. Đổi mới không còn có những cảnh trạng đau thương nên không thể để những tâm hồn bất thiện ở chung được, mà phải dời đổi bất kỳ đến một thế giới khác phù hợp với tâm hồn bất thiện đó.

“Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời” nên dù Long Hoa Hội đã diễn khai mà cũng còn đủ thì giờ cho chư sinh chúng hướng thiện lo tu. Điều cần thiết thứ nhất hiện giờ là chư nhân sinh phải tỉnh thức để nhận định xem việc nào cần phải làm trước nhất, khi nhận định sẽ tự biết rõ trình độ hiện tại của mình ra sao? Mình là một sinh nhân hay là một nguyên nhân? Nếu là một sinh nhân thì mong cầu ở sự cứu độ của các tôn giáo, nếu là một nguyên nhân thì tự thấy muốn cứu lấy mình, bằng vừa muốn được cứu độ, vừa muốn cứu thế giúp nhân đó là một đại nguyên nhân. Tất cả đều có chung một sứ mạng cứu khổ, ban vui: trước tiên là tự cứu độ rồi đến độ tha, tự cứu khổ ban vui cho chính mình rồi lần đến cứu khổ ban vui cho mọi người.

Chư Liệt vị ý thức được sẽ thấy rõ là đúng mà cứu khổ ban vui cho đời. Không phải chỉ riêng của Bần đạo mà là ở mỗi người hay của chung tất cả mọi người. Nếu tất cả mọi người cùng chung một chí hướng cứu khổ ban vui, tất cả có chung một hành động thuận thiên cơ và sẽ được cùng sống chung trên cõi đời an lạc này.

“ Khi tái lập lại đời Thượng Nguơn Thánh Đức.”

Nếu được vậy thì không còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa đối với Bần Đạo cũng như tất cả mọi người.

Buổi thuyết pháp của Bần Đạo hôm nay đến đây đã dứt Bần Đạo ban ân lành cho Chư Liệt vị. Bần Đạo giã từ chung.

TRUC LAM MEDITATION TEMPLE

THE THRICE PREACHMENTS OF MITREYA (1974)

THE FIRST PREACHMENT

Mitreya, I am very happy to say welcome to ladies and gentlemen!

This is the first preachment of me. All ladies and gentlemen as well as almost all living-beings expect to live in peace and contentment, escaping from misery. That is what I take responsibility to do. I try to make all people in this world live in peace and contentment. That seems very difficult for every body, but it’s rather easy to do!

“It’s really difficult to see the sun in the shade of night, but under Providence, at daybreak, we could see the sun. I am neither The Creator nor have miracle which can change the will of Heaven. I follow the celestial power to do. The misery of this world is to stop to re-establish a peace and contentment life.

I, Mtreya by order of God, descend on earth to sort out carefully the good from the bad; due to benevolence, I can not sit still to reward and punish, would like to call upon living-beings to do good and avoid the bad. There is still enough time for them to choose, “the good always exists and the bad will perish”. The innovation doesn’t permit the misery to exist; so malefactors have to move to another world suited to these evil-minded persons.

“Sitting in meditation for one incarnation, achieving enlightenment immediately” So, by the opening of Long Hoa Festival, there would be enough time for living-beings to sit in meditation and be inclined to the good. The first important thing is that living-beings must be enlightened to consider what is to be done beforehand. In awareness, one would know clearly one’s degree of understanding? One is a living-being or a holy man? A living-being expects an assistance and preservation of religions; a holy man? wants to save himself ; in case, wanting to help and saving the world at the same time is a great holy man. All have a common mission of “save from misfortune” and “bring happiness to life”: the first is helping oneself and helping others after; “save from misfortune” and “bring happiness” for oneself first and for everyone after.

Being aware of that principle, you will see the right, and fulfill the mission “save from misfortune” and “bring happiness to life”. That is not only the mission of mine, but of all people. If all people have the same sense of purpose about “save from misfortune” and “bring happiness to life”; all have the same action suited to celestial power; they would live together on this happy world.

Re-establishing the life of “Thuong Nguon Thanh Duc”The king dom of god would bring to me and to every body the greatest happiness.

The preaching is ended now.

Bless you. Good bye.

BÀI THUYẾT PHÁP THỨ HAI

Bần đạo chào chư Đạo Trưởng các chi phái, tôn giáo trong và ngoài nước, Bần Đạo chào mừng chư thiện nam, tín nữ thập phương. Bần đạo mời chư liệt vị an tọa.

Trước sự hiện diện của chư liệt vị, sứ mạng cứu thế mang an vui đến cho đời của các tôn giáo trên thế giới sắp đến ngày thành tựu, vì chẳng còn bao lâu nữa. Bần đạo báo tin lành cho chư liệt vị rõ: ngày vui chung sắp tới để tưởng thưởng xứng đáng công lao của các tôn giáo đã lãnh lịnh xuống trần để cứu đời độ thế, ngày an lạc của cõi trần khi đã đến là sứ mạng của các tôn giáo cũng hoàn thành giai đoạn chót đã tới, chư Đạo Trưởng đã thấu hiểu điều đó rồi. Vậy hãy cùng nhau nổ lực kêu gọi nhân sinh hãy mau mau quay về đường thiện, vẫn còn đủ thời giờ tích đức tu nhân, bằng để trể phải đành chịu theo luật đào thải của thiên cơ mà không còn tồn tại.

Các nhân sinh được may mắn có mặt trên cõi đời hiện nay hãy cố lo làm lành lánh dữ để được hưởng cõi đời an lạc của Minh Đức Tân Dân mà Đấng Tạo Hóa đã dành cho chư liệt vị, nếu không sớm liệu để phải chịu diệt vong, không được hưởng phần thưởng dành cho nhân loại trong cõi đời nầy thì đó là một điều đáng tiếc.

Bần Đạo cũng như chư Đạo Trưởng của các tôn giáo vì lợi ích của nhân sinh mà không quản ngại gian lao nhủ khuyên, kêu gọi chư nhân sinh hồi tâm hướng thiện dù có kết quả ít hay nhiều, Bần đạo cũng như chư Đạo Trưởng của các tôn giáo cũng dốc hết sức mình, dốc hết khả năng pháp mầu của chính mình để tận độ nhân sinh. Chư nhân sinh nếu ai không tường cơ thiên, thuận theo máy trời tiến hóa để phải bị diệt vong, đọa trần, điều bất hạnh đó không thể bảo Bần đạo và chư Đạo Trưởng của các tôn giáo thiếu từ bi, bác ái. Ngược lại tất cả chư sinh nhân cùng hợp tâm hướng thiện, cùng hoài bão cứu thế độ đời như chư Đạo Trưởng các tôn giáo thì ngày an lạc của cõi trần sẽ cùng nhau chung hưởng. Bần đạo ước mong đừng thiếu sót một người nào

Bài thuyết pháp của Bần đạo hôm nay đến đây đã dứt .

Bần đạo ban phước lành cho chư liệt vị.

TRUC LAM MEDITATION TEMPLE (1974)

THE SECOND PREACHMENT

I, Mitreya This humble hermit would like to say welcome to Leaders of religious branches inside and outside the country and good human beings from all over the world

Please be seated.

Before the presence of ladies and gentlemen, the mission “saving life from misfortune” and “bringing happiness to life” of all religions in the world is soon going to achieve great success. I am very pleased to inform you of the coming of the happy day. To reward the religions for receiving order to descend on earth to save mankind from sufferings; when the happy day comes, the mission of the religions ends. Religious Leaders have known that. So, join together to make efforts to appeal living-beings to return to good; there is still enough time for performing oneself and do good deeds; otherwise, they have to execute the law of elimination of celestial power, and may not be existed.

Living-beings are lucky to be existed on life at present should try to do good and do no harm to enjoy happy life of “Minh Đức Tân Dân” The extremely thriving spiritral civilization of human kind that The Creator has reserved to you. Otherwise, the extermination would appear, you would never enjoy the award reserved to mankind in this world, how unfortunate!

Mitreya as well as Leaders of religious branches, for the interests of all living-beings, fell no fear to overcome hardship to appeal all living-beings to mend one’s ways for the inclination to the good despite low or high effects. I and Leaders of religious branches have made efforts and take full advantage of ability and miracle of ourselves to assist and preserve all living-beings. Among all living-beings, if someone doesn’t understood the celestial power, doesn’t agree to the evolution of Heaven, they would be perished, banished. That is not due to me and leaders of religious branches lacking of mercy and humanity. Otherwise, if all living-beings together are inclined to the good, with the aspiration to save life as leaders have done, you would enjoy together the happy day on life. Hoping all of you will associate to do that.

The preaching is ended now.

Bless you.

Good Bye.

BÀI THUYẾT PHÁP THỨ BA

Bần đạo chào Chư Liệt Vị, Bần Đạo mời chư liệt vị an tọa.

Bần đạo đại hỷ trước tấm lòng nhiệt tình của chư liệt vị.

Đời hạ nguơn nơi nơi đều khảm khổ, mỗi việc mỗi khổ, nên Chư Phật bảo rằng cỏi đời nguơn hạ là bể khổ. Khi gầy dựng đời Minh Đức Tân Dân thời đổi ngược lại tất cả nơi nơi đều vui toại, khắp chốn yên lành nhân sinh trường thọ.

Chư Liệt vị, chư sinh nhân muốn được hưởng đời Thượng Nguơn Thánh Đức thời cố gắng làm lành, lánh dữ, tích phước, tu nhân, trau luyện đạo pháp để đến những ngày sau cùng có đủ phước đức, đủ pháp mầu mà tồn tại với cõi đời Minh Đức Tân Dân.

Chính vì những điều yếu đó nên Bần Đạo mới truyền lệnh cho Cao Đài Giáo phái Chiếu Minh Giáo Tòa cử hành Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai diễn, hầu nêu lên một pháp lành cũng còn là một chiếc phao cứu cánh.

Công đức, công quả không chưa đủ, còn phải có công phu trau luyện, có vậy bản nguyên của chư liệt vị, chư nhân sinh mới viên thành.

Rồi đây Bần đạo chu du khắp xứ để tận độ nhân sinh.

Ai có căn có phúc sẽ được Bần đạo khải ngộ giáo truyền hoặc nghe thấy Đạo Pháp của Bần đạo, chỉ những ai vô phần vô phước mới không tìm thấy được sự cứu độ của Bần đạo trong kỳ ba mạt thế này.

Bần Đạo mong sao chư Liệt vị, chư nhân sinh nhờ đại hồng ân của Đấng Chí Tôn mà tỉnh tâm, hướng thiện tu hành, để tất cả được cứu độ thoát qua lần gạn lọc sau cùng này.

Bần Đạo phát nguyện: nếu một người nào biết làm lành, tích phước, trau luyện đạo mầu mà không được cứu độ thì Bần Đạo sẽ ở lại cõi ta bà nầy mãi mãi.

Bài thuyết pháp của Bần đạo đến đây đã dứt.

Bần đạo giã từ chư Liệt Vị.

TRUC LAM MEDITATION TEMPLE (1974)

THE THIRD PREACHMENT

Ladies and gentlemen!

Please be seated

I am very happy to welcome all of you.

Everywhere in life of this world, exists misery; there is unhappiness in every piece of work. So, Buddha told that this dusty world is an ocean of misery. After establishing the life of “Minh Đuc Tan Dan” The well lit mind of the new human kind! everywhere is jubilant, here and there is safe, living-beings are long-lived.

To enjoy a life of “Thuong Nguon Thanh Duc” the both material and spiritual civilization, living-beings should try to do goods and do no harm, practice charity, cultivate virtue and morals, improve moral philosophy so that to the closing days, they could have enough happiness and virtue, miracle to exist in the life of “Minh Duc Tan Dan”

Due to these above important things, I would like to convey an order to Caodaism, religious sect Chieu Minh Giao Toa to perform the Great Festival “Long Hoa Hoi” in order to put forward a benediction as a lifebuoy.

Merits, charity works are not enough; there must be the improvement of painstaking; doing so, the origin of ladies and gentlemen would be perfect.

Then, I, Mitreya will travel everywhere to assist and preserve all living-beings.

Who has origin and blessing would be enlightened by missionary work or received training on the holy method from me; only ill-fated wouldn’t find the salvation in this era of decadence.

Hoping living-beings, due to the great benevolence of The Supreme Being can undisturbed in mind, inclined to the good, leading a holy life so that all would be assisted and reserved, overcome this sorting-out.

I’d like to swear an oath: If anyone who knows how to do good things, practices charity in training “miraculous machine” isn’t saved from misfortune, I would forever stay on this world.

The preaching is ended now.

Good Bye.

C- HOẰNG PHÁP THỪA THIÊN HUẾ

Sau khi Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai diễn tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện Vĩnh Long, Đức Di lạc Tôn Phật tổ chức là tiếng chuông cảnh tĩnh nhân sinh đang sống đua chen vật chất với tiền tài, danh lợi, không màng tới đạo pháp, chẳng kể đến tình nhân loại, chiến tranh đến hồi ác liệt từng phút từng giây diễn ra trên đất Việt, biết bao nhiêu mạng sống không còn nữa, máu đổ thịt rơi ôi! Vô cùng thảm khóc.

Với sứ mạng cao cả ban vui cứu khổ cho đời Ngài Bùi Hà Thanh được lịnh đi hoằng pháp Thừa Thiên Huế, cùng với các chức sắc cao cấp của Hội Thánh Chiếu Minh, tháp tùng đoàn có Đạo trưởng Huệ Liên Hoa ở Lư Bồng Sơn. Phái đoàn thực hiện cuộc hành trình đạo pháp đến các tỉnh miền Trung đều có lập đàn tại các tỉnh đạo để dại dỗ cho những chức sắc, nguyên căn giác ngộ hiểu rõ tình thế sắp đến. Thật quá ư gian nan và nguy hiểm phái đoàn vượt qua lửa đạn. Cảnh tượng hãi hùng khi các chiếc xe đi trước bị đặt mìn nổ tung, pháo binh vang rền, từ trong thôn quê đến cận thành thị không nơi nào yên ổn nhân sinh đang trả nghiệp trong trận chiến sắp kết thúc.

Với sự tinh tưởng tuyệt đối vào cơ cứu thế, cuộc hoằng dương chánh pháp đến Thừa Thiên Huế một cách an toàn. Do lời kêu gọi thiết tha của Đức Di Lạc Tôn Phật, các nguyên căn dâng Đại Thệ lãnh chân truyền tâm pháp để tự tu hành nơi tư gia tịnh thất phù hợp với giai đoạn mới sắp đến. Bởi vì, không còn thời giờ đi đây, đi đó, chẳng có phương tiện tiếp xúc với nhau, đây là dịp tốt để họ được cứu độ nên họ không ngần ngại vào cửa đạo.

Với đàn cơ chỉ dẫn như sau:

BỘ PHẬN Đàn Tuất thời, ngày 20-12 ÂL Giáp Dần 1974

HIỆP THIÊN ĐÀI Tại Tỉnh Đạo Thừa Thiên

CHIẾU MINH HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI TẠI: TRUNG VIỆT

Chứng Đàn: Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh

Pháp Đàn: Thượng Lưu Thanh

Đồng Tử: Huệ Hiệp Những môn đồ dâng đại thệ và

Đọc Giả: Huệ Minh thọ tâm pháp vô vi

Đọc Giả: Huệ Minh Trương Thị Tuyết Hoa

Điễn Văn: Bùi Trí Dũng Nguyễn Thị Thanh Vân

Hầu Đàn: 63 Vị Nguyễn Minh Khải, Mai Ngọc,

Nguyễn Khiêm, Mai Liêm.

                      Thi

Huỳnh sắc hào quang chiếu khắp nơi

Quang minh tỏ rạng thập phương trời

Đồng chung thiện sĩ gieo nhân đạo

Tử sĩ khắp nơi được thảnh thơi

Tiểu Thánh xin chào chư thiên mạng, chào chư đạo sư, chào chư đạo tâm nam nữ, Tiểu Thánh được lệnh về báo tin có Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc lâm đàn chư hiền thành tâm tiếp rước Tiểu Thánh giả từ xuất ngoại triều nghing. Thăng

          Tiếp Điển: Thi

Phật Tiên còn xuống độ trần gian

Tôn quý đạo nhân dẫn lối đàng

Lạc quốc dựng gầy ngăn họa khổ

Di nhân lương thiện đến Nam Bang

Di Lạc Tôn Phật, Bần đạo đại hỷ chào mừng chư phúc tử linh căn, chào mừng chư hiền nhân Thiện sĩ, Bần đạo mời chư hiền an tọa.

                 Thi

Đạo Trời chung sức rãi năm châu

Cứu độ sinh nhân khỏi khổ sầu,

Gian khổ thật nhiều, ngôi thật lớn

Trò Tiên vì đạo chiếm công đầu,

               Thi Bài

Tại thế gian tuy nhiều tôn, phái

Tại thiên cơ nên phải tách ra

Cho nhiều tôn chỉ gần xa

Thấp, cao, khó, dễ, để mà độ nhân.

Gần chung cuộc, cõi trần biến động,

Các nhã thuyền chèo xuống nhanh lên

Vớt người biển khổ thang rên

Tùy căn, tùy cảnh tạo nền độ sanh.

Cận lắm rồi, phải nhanh hơn nữa

Vẹn Nam nhà lần lựa sao xong,

Phải đâu riêng một Non Sông

Việt Nam là đủ Hóa Công định rồi.

Nam Việt trước xong rồi Đạo Pháp,

Đến Ngũ Châu phúc đáp lòng thành

Độ người chí thiện nhiệt thành

Thoát cơn đại biến đời lành tồn sinh.

Tiến tới đây ngửa chinh cơ cuộc

Đạo Nam nhà rọi đuốc khắp nơi,

Vang danh cho mối Đạo Trời

Cứu nhơn thoát khổ giúp người lạc an.

                  Thi

An lạc cõi đời hưởng Thuấn Nghiêu

Có tu thoát khỏi họa tai nhiều

Sinh tồn Thượng Đức trên ban thưởng

Tạo hóa, công bình chánh pháp nêu.

                  Thi

Nêu cao phước đức của Nam nhà

Biết đạo thương đời rộng ái tha

Tiển chọn giống lành sinh Đất Việt

Cứu đời thống khổ của Kỳ Ba.

Bần đạo tóm lược những điều vừa minh khải, Đạo lành là đạo chung của tất cả chúng sinh trong càn khôn vũ trụ nói chung, riêng với địa cầu 68 mà được gọi là thế gian của chư hiền ngày nay cùng có một mối đạo lành. Tuy chung với Đạo Càn Khôn, nhưng riêng với thế gian này, thời đạo lại biến đổi không giống với các thế giới khác vì sắp đến ngày thay đổi theo máy tuần hoàn từ tốt dần đến xấu là điều rất thường sự, không mấy ai chủ tâm, không gây ra quá nhiều thiệt hại, nhưng từ xấu trở lại tốt quả là một điều biến thể lạ thường kinh dị. Với pháp mầu linh diệu của Đạo, trong một cuộc đổi thay từ xấu đến tốt bắt buộc phải rạng lọc những phần thiện phúc để lại, những phần bất thiện vô phúc phải dời đi đến một nơi khác phù hợp với trình độ với cơ cảm nên nhân gian này phải trải qua những họa khổ lớn lao. Ai phúc đức co,ù mới được soát qua họa kho. Ai vô phúc, vô đức tất nhiên phải bị diệt vong nhân sinh trưởng một nơi khác. Bần đạo cũng là một Giáo Chủ như những vị Giáo Chủ khác, nhưng sứ mạng của bần đạo lại không giống như các Giáo Chủ đã xuống trần trước đây Giáo nhân, Truyền lý mà Bần đạo chỉ có sứ mạng xét tội phước thưởng phạt thế gian trong ngày sau cùng của kỳ ba mạt thế. Ngày phán xét cộng đồng, lẽ tất nhiên ngày đó sẽ có các vị Giáo Chủ lâm trần để chứng giám việc làm của bần đạo nên các Kinh, Sám đều nhắc rằng ngày phán xét đại đồng các vị giáo chủ sẽ trở lại thế gian là như thế. Nhưng trước ngày phán xét cũng như trước ngày chung kết hạ nguơn mạt thế. Các vị Giáo Chủ thỉnh thoảng lâm trần để phiến nhũ, chỉ bảo cho chư môn đồ, đệ tử của mình, cũng như các Giáo Sư nhắc nhở các thí sinh sắp vào ứng thí, dù giáo lý đã chỉ dạy rõ ràng rồi bần đạo vì thương cõi đời nên dứng ra lãnh sứ mạng phán xét thế gian dù lòng từ bi của Bần đạo có mênh mong như thế nào đi nữa cũng không thể bỏ Thiên luật để dung tha, chăm chế cho nhân gian. Muốn giáo đời bần đạo chỉ còn cách xuống trần sớm hơn ngày phán xét đôi niên để nhũ khuyên nhắc nhở chư hiền, chư sinh, chung cố gắng lo tu luyện, lo lập đức bồi công để đến ngày phán xét được hưởng hồng ân. Bần đạo cũng nói thêm cho chư sinh nhân rõ: Đạo Cao Đài không phải đạo riêng của một ai, hoặc một nhóm nào cả “Đạo Cứu Thế Mạt Đời” nếu chư sinh nhân dịch nghĩa sáu chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ sẽ thấy rõ hơn. Thí dụ: như Đạo Lớn Mạt Đời Tận Độ. Danh hiệu Cao Đài là do nhân sinh xưng gọi cũng như tâm pháp Đại Đạo. Tuy chư sinh nhân thấy rõ phát nguyện của Tâm Pháp từ Chiếu Minh Phái, nếu xét kỷ cũng chẳng phải riêng của Chiếu Minh nếu chư sinh nhân hiểu được danh từ “Chiếu Minh” như vậy Tâm Pháp cũng là một “Pháp Đạo” chung, Cao Đài Giáo cũng là một đạo chung và hầu hết các tôn giáo khác nếu xét kỷ cũng đều như vậy cả. Sau đây chư nhân sẽ thấy một sự quy thống tôn giáo, một cách huyền vi do tạo hóa định đoạt. Từ những tôn phái, của riêng những tôn giáo rồi là đến các tôn giáo cũng hòa chung nhau để hiệp sức cứu đời, Tâm pháp bí truyền cũng sẽ được chỉ dạy truyền bá khắp nơi.

Gần 02 triệu tín đồ Cao Đài Giáo sau này sẽ được thọ Tâm Pháp bí truyền,

Gần 02 triệu tín đồ Phật Giáo Nguyên Thủy sau này sẽ được thọ Tâm Pháp bí truyền,

Gần 02 triệu tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo sau này sẽ được thọ Tâm Pháp bí truyền,

Gần 02 triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo sau này sẽ được thọ Tâm Pháp bí truyền,

Đó chỉ nói riêng về Việt Nam, như các Tôn giáo, các Tôn phái hiện thời cũng đều có bí pháp để trau luyện, nhưng sau này bằng mọi cách Bần đạo sẽ chỉ truyền Tâm Pháp, vì Tâm Pháp của Chiếu Minh hiện giờ là “Sinh Tồn Pháp” nên những ai hữu phúc đều được Bần đạo chỉ truyền. Tuy nhiên người có “Công Nhận Tâm Pháp Bí Truyền Sinh Tồn Pháp” là Giáo Chủ Ngôi Hai Ngô Minh Chiêu, nên các sắc lịnh về Tâm Pháp Bần đạo để cho Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu truyền phán. Các môn đồ dâng đại thệ đêm nay, đêm mai nhớ có mặt đầy đủ để nhận tâm pháp bí truyền ngay, vì thời gian khẩn cấp không thể trì hoãn như xưa được và đêm mai lúc tuất thời chư sinh nhân sẽ được nghe Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu truyền dạy những điều quan trọng có liên hệ đến sự tồn vong của nhân loại trong hạ nguơn này.

Hai Giáo Chủ giáng đàn tiền

hãy tịnh yên

nghe chỉ dạy

các chư hiền

Thầy mừng chung các trẻ, đây là đàn quan trọng Thầy cho mời Trưởng Tử Hà Thanh, Bùi Trí Dũng và các chức sắc Thiên phong của Hội Thánh Chiếu Minh để Thầy dạy việc.

Các con thân mến! Trước sự thay đổi của thời cuộc cơ đạo ta đến giai đoạn quyết định để cứu vớt nhân sinh trong thời loạn ly thật không dễ. Vì vậy Thầy cho mời tất cả các con để thông báo sự việc quan trọng này, các con nắm chắc thời cơ độ đời về Chân Truyền Tâm Pháp, từ xưa đến Thầy chỉ dạy cho những nguyên căn đa phúc, nay đến giai đoạn đem ban truyền tâm pháp cứu thế độ nhân của thời kỳ ân xá và đúng lẽ Tam Thanh Vô vi Thầy nhận của Đấng Cha lành. Vì vậy, các con hãy mở rộng lòng Từ Bi-Bác Ái độ nhân phù hợp với thời cơ cho nên không thể chần chờ làm hỏng việc của Thầy.

Chân Truyền Tâm Pháp gồm có:

Cấp đạo thứ nhất: ăn chay 10 ngày được sinh hoạt vợ chồng là Thần Đạo

Cấp đạo thứ Hai: trường trai được sinh hoạt vợ chồng là Thánh Đạo, hai cấp đạo này tạo ra những sinh nhân lỗi lạc sau nầy

Cấp đạo thứ Ba: Trường trai và tuyệt dục gọi là Tiên Đạo hay Phật Đạo

Những nguyên nhân nào tu hành từ thấp đến cao và thăng tiến đem đến lợi ích thiết thực cho bản thân và cũng là Thiên ý.

Khi liễu đạo đắc phẩm vị của cấp đạo mà mình đã lựa chọn hành trau đúng phẩm vị: đắc Thần, đắc Thánh, đắc Tiên, đắc Phật đó là kỳ ân xá mà Tạo Hóa đã bố ban cho nhân sinh thời mạt hạ.

Đây là sắc lệnh của Thầy, các con tuân hành không thể trì trệ làm ngăn trợ sự cứu đời trong giai đoạn cực kỳ quan trọng này.

Các con nhớ rõ là trễø một giây, một khắc, cũng làm cho sự cứu đời của Thầy và các con cũng làm đi chậm lại một giây, một khắc đó.

Các con hãy tuân hành nếu để trễ sau này sẽ ân hận.

Thầy ban ân lành chung cho tất cả.

ĐẠI HỘI MẠNH THƯỜNG QUÂN TOÀN QUỐC.

Kính thưa chư quý liệt vị!

Hôm nay là lễ khai mạc Đại Hội Mạnh Thường Quân toàn quốc

Chúng tôi rất hân hoan khi thấy chư quý vị đáp lời mời của Đức Long Hoa Giáo Chủ đến đây cùng chúng tôi lo cho Cơ Đạo.

Thưa chư quý vị!

Đương nhiên chư quý vị rất ngạc nhiên về đại hội nầy vì không có thời giờ rộng tôi chỉ giải thích một phía cạnh về “Mạnh Thường Quân”:

(Ngày xưa có một vị giàu lòng hảo tâm, vị tha, bác ái. Hiền nhân ấy rất nhiều nhân đức, đi chu du khắp xứ. Đến đâu hiền nhân ấy cũng thi ân bố đức, người đời rất vui mừng, hân hoan khi thấy vị hảo tâm ấy, vị hảo tâm được mang tên: Mạnh Thường Quân)

Giờ hôm nay chúng tôi được Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật truyền lịnh mở: Đại Hội Mạnh Thường Quân toàn quốc tại Đà Thành nầy.

Chúng tôi vì Đạo, vì Thầy mà đến đây, mong chư quý vị vì Đạo, vì Phật Pháp góp công, tài, trí, vật cùng chúng tôi lo cho cơ đạo cứu độ chúng sanh trong thời mạt hạ này.

Như đại đa số chúng ta đã biết, khi buổi hạ nguơn đã rốt, Long Hoa Hội cũng xuất hiện.

Long Hoa Đại Hội đã thật sự khai diễn đồng thời cơ Di Lạc cứu thế cũng ra đời vì lòng từ bi bác ái không thể để cho nhơn loại bị hoàn toàn diệt vong nên tiên phật phải hạ trần, các vị Giáo Chủ cũng đã trở lại thế gian góp sức cứu đời độ thế hầu lựa chọn một số duyên thánh để gầy dựng đời thượng nguơn tân dân minh đức trước khi có cuộc Đại Đồng phán xét cuối cùng.

Muốn thực thi cơ cứu thế phải có một ngân quỷ to lớn ngoài khả năng tài chánh cá nhân, vì thế chúng tôi được lịnh Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật tổ chức những Đại Hội Mạnh Thường Quân nhằm vào mục tiêu ấy.

Hai tháng vừa qua chúng tôi đã thực hiện xong bốn đại hội:

1- Đại Hội Mạnh Thường Quân tiền phong danh dự tại Chiếu Minh Giáo Tòa.

2- Đại Hội Mạnh Thường Quân nội bộ tỉnh Vĩnh Long.

3- Đại Hội Mạnh Thường Quân toàn tỉnh Vĩnh Long lần thứ nhứt.

4- Đại Hội Mạnh Thường Quân toàn tỉnh Vĩnh Long lần thứ nhì.

Hôm nay Đại Hội Mạnh Thường Quân tại Đà Thành và còn nhiều Đại Hội như thế trong bổn xứ, chỉ còn chờ sắc lịnh để thi hành.

Mỗi mỗi, chúng tôi đều do Thiên ý và tuyệt đối phục tùng chớ tự chúng tôi không bao giờ dám mạo tội trời đề xướng ra một sự việc, một hành vi, một phương thức nào hết, vì còn mang xác thịt, chưa được toàn minh làm sao tránh khỏi lầm sai một khi bị lòng phàm tánh tục chi phối.

Chúng tôi biết rõ thế nào là nhơn vi, thế nào là Thiên tạo.

Trước khi chấm dứt lời trình đầu tiên để tiên đọc ba bài thuyết pháp và lời kêu gọi phát tâm của Di Lạc Tôn Phật thay diễn văn khai mạc do chương trình Đại Hội đã đề ra chúng tôi tha thiết ước mong quý vị lưu ý chăm nghe, suy tư kỹ càng, biện minh rành mạch để đạt pháp ý của Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật hầu dốc lòng làm theo để tự cứu lấy mình và góp công của vào việc cứu khổ ban vui đem lại hòa bình an lạc cho toàn nhân thế.

Xin cám ơn Chư Quý Liệt Vị,
Chưởng Giáo Bùi Thanh

Để thực hiện đường lối cứu thế trong giai đoạn cực kỳ khó khăn, Ngài Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh y hành Thiên lịnh của Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật tổ chức Đại Hội Mạnh Thường Quân toàn quốc, vào ngày Rằm tháng Giêng năm Ất Mão (15-01-1975) đánh dấu sự rỡ ràng của cơ đạo đến chỗ tột đỉnh vinh quang, ngự tại Lâu Đài nguy nga tráng lệ Palacc (Đà Lạt) được tất cả các Mạnh Thường Quân đến tham dự và ủng hộ nồng nhiệt, cùng với lời phát biểu của các vị lãnh đạo tôn giáo, cũng như sự hy sinh vì đạo cho cơ cứu thế lập đời, đủ đầy hữu vô.

Nhân tài vật lực cần phải đóng góp vào cơ đạo mới có đủ phương tiện hành đạo trong thời kỳ, gian nguy khổ khó.

Với sự đồng tình của tất cả nguyên nhân giác ngộ Đại Hội Mạnh Thường Quân toàn quốc đã thành công tốt đẹp trong niềm vui chung của các vị Mạnh Thường Quân đến tham dự.

-Lạc Tôn-Phật

Bần Đạo Đại Hỷ Chào Mừng Chư Liệt Vị!

Lành thay! Lành thay! Chư Liệt Vị đã đáp lời mời của Bần Đạo đến dự Đại Hội để cùng góp tài, góp trí với Bần Đạo lo cứu thế độ đời.

Hòa bình an lạc cho đất nước nầy, cho thế giới này không phải tự nhiên có được mà do những bàn tay nghĩa hiệp thiện từ, những khối óc đại thiện đại nghĩa tạo ra. Nếu chúng ta để trể một một phút thì hoạn họa sẽ gây khổ hại cho nhân gian nầy nhiều thêm một phút, Chư Liệt Vị là những vị cứu tinh của nhân loại mang sứ mạng ban vui cứu khổ cho đời, một sứ mạng cao cả Thiêng liêng. Vậy hãy cùng góp tài, góp trí với nhau để ban vui, cứu khổ cho đời.

Trong việc góp tài, góp trí không câu chấp nhiều, ít, vì ai ai cũng muốn đem hết sức mình ra để cứu thế, độ đời nên tuỳ vào khả năng của mỗi người mà ủng hộ, đóng góp. Công đức của Chư Liệt Vị sẽ to lớn vô lượng, vô biên.

Bần Đạo ban phước lành cho Chư Liệt Vị

Bần Đạo chào chung.
Di Lạc Tôn Phật

Một thời gian sau, thế cuộc đổi thay, cơ đạo qua một khúc quanh lịch sử đúng theo lời tiên tri của Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật cho biết để khuyến khích nhân sinh đi vào vô vi tâm pháp, tự trau luyện cứu khổ ban vui cho chính mình là điều thiết thực và hữu ích. Nhất là việc tu hành trong thời gian hiện tại phải gặp nhiều khó khăn, do đó cơ hữu hình của các tôn giáo lo phần bên ngoài phải bị hạn chế. Bởi vì hữu vi hữu tướng, cái hình thức của tôn giáo không thích hợp, còn vô vi vô tướng thuộc nội tính bên trong, tự gầy tự luyện và phát triển tốt đẹp khác hẳn đường lối rườm rà, sắc tướng âm thinh, chẳng có lợi chi cho việc trau tâm sửa tánh. Nhờ thấu rõ cả hữu lẫn vô, đời và đạo trong thời hạ nguơn mạt pháp mới thoát hẳn lưới rào của vạn hữu ngăn đường đón ngõ bước tiến đạo.

Năm 1975 Đức Ngôi Hai Giáo Chủ cho Đức Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh an dưỡng và sắc phong cho Ngài Bùi Trí Dũng thay thế Chưởng Giáo, chấp chưởng cơ giáo đạo kỳ ba trong giai đoạn mới thuận hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời.

T, vì nhân thi hành sứ mạng cứu thế độ đời thời mạt hạ.

Mùng 06 tháng 04 năm Ất Sửu (1985)

          TÂM THI DI CHÚC

CHƯỞNG GIÁO THIÊN TÔN

          BÙI HÀ THANH

                 Thi

Thanh tịnh vô vi chuyển pháp luân

Vân thành ngũ sắc chiếu từng từng

Đồng tâm giác ngộ tu chơn chánh

Tử hiếu viên thành báo đức ân

Giáng tục luân hồi thiên vạn khổ

Đàn mầu viên phước hữu tinh thần

Báo tin Chưởng Giáo lâm cơ diệu

Trọng đạo Thượng thừa đắc pháp thân

Thanh Vâng Đồng Tử trước báo tin lành thiện hữu bình tâm an tọa nhân ngày thành đạo, Chưởng Giáo Thiên Tôn chiếu điển hoan hỷ nhận lễ, chư hiền hữu trang nghiêm tiếp Ngài giá ngự đàn mầu, Đồng Tử cùng Chư Thánh đồng trở lại tiếp nghinh hộ giá.

                  Thi

Chưởng đạo Thượng Thừa độ chúng sanh

Giáo dân giác ngộ luyện đơn lành

Thiên tiên tánh mạng quy chơn khứ

Tôn diệu cam lồ chủng đức thành

Bùi ngọt xẻ chia tình đạo hữu

đồ quy cũ lập nên danh

Thanh nhàn tự toại trong trời đất

Giáng gọi hiệp hòa bất cạnh tranh

Hoan hỷ Thầy mừng đoàn tụ đàn trung điễn linh quang siêu rỗi chốn thiên kinh, nhận chức Thượng Đế ban ân Thầy ngôi vị trong thời mạt hạ Long Hoa hữu công phổ độ hoằng khai chánh giáo, danh dự thay Chưởng Giáo Thiên Tôn đắc thành chánh quả.

Thầy Tứ-Trường Thiên-Kỷ Niệm

Chưởng đạo pháp “Chiếu Minh nhứt thống”

Giáo dân lành phá vọng trừ mê

Thiên khai diệu pháp bồ đề

Tôn nghiêm quy củ nguyện thề giới trai

Bùi ngùi chốn trần ai đọa lạc

hải lòng tan tác đắng cay

Thanh quy mầu nhiệm hoằng khai

Giáng trần độ khách trần ai tĩnh hồi

Hội Long Hoa đến hồi ứng thí

Hữu đức tài chơn lý lập công

Tình thương nam nữ đạo đồng

Bấy lâu sống tạm trần hồng ủi an

Tình đạo đức linh san cốt nhục

Lạy cầu Thầy ban phúc toàn gia

Hoàng Thiên chấm điểm đó mà

Các con tu khổ hiệp hòa độ nhân

Đời danh lợi phù vân chẳng khác

Chịu nhục vinh thưởng phạt não nùng

Cũng vì sắc dục chẳng cùng

Biển mê sóng bủa bão bùng lao xao

Phật Thánh Tiên cũng trào dòng lệ

Nhìn thế gian chẳng kể lỗi lầm

Quên rồi đạo lý cao thâm

Để cho ma nghiệp khảo tâm ưu sầu

Thầy bắt một nhịp cầu “Thiên Quốc”

Dạy đàn con âm chất từ bi

Học rành chí đạo vô vi

Kẻo rồi lạc nẻo, sầu bi lòng Thầy

Cơ mạt pháp mong ngày chuyển lại

Tiếp hoằng khai chẳng trái từ chương

Đệ huynh trên kính dưới nhường

Chị em đoàn kết mến thương một lòng

Đời ngang trái bưởi bồng quá ngán

Lập đạo mầu khai sáng huyền cơ

Đừng cho thần khí lu mờ

Các con thấu hiểu huyền cơ Thầy đề

Đạo tiên thiên chẳng hề ràng buộc

Hỗn tục tu chẳng nhuốc trần nhơ

Ngày nay Thầy giáng đàn cơ

Hữu duyên hữu hạnh đề thơ nhiệm mầu

Bùi Trí Dũng nguyện cầu tối thượng

Phép tiên gia ban thưởng hồng ân

Đạo cao đức hạnh mười phần

Nhã hòa khiêm tốn “thượng nhân” là mình

Chẳng nệ chấp trọng khinh con ạ!

Thầy mãn phần trao cả huyền vi

Thiên cơ mật pháp phò trì

Pháp luân thường chuyển cứu nguy khách trần

Đạo dù khó chuyên cần phổ độ

Tùy phước duyên mới lộ cơ linh

Cuộc trần vinh nhục chống kình

Đạo đời quyền tước công khanh là thường

Tu đạo hạnh kỷ cương giềng mối

Chốn thiên đường gởi tới “điệp thông”

Đạo cao bí pháp trong lòng

Phát Minh Chiếu diệu điển thông độ trần

Thời thế khó gian truân mạt hạ

Hiếm người tu cao cả đó mà

Cũng nhờ đức cả Thầy Cha

Đem lời huyền diệu sâu xa dỗ dành

Cho đàn con tánh lành nhớ lại

Đừng mãi mê bươn chảy lợi tình

Đạo mầu Thầy gởi điễn linh

Thương Bùi Trí Dũng vẹn gìn nghĩa ân

Diệu pháp Thầy ân cần trao lại

Tùy thời cơ con phải đảm đang

Chuyển luân đạo pháp thiên bàn

Nhân tâm thu phục rỡ ràng kính yêu

Đây là “Hội Quần Tiên” cộng hưởng

Thầy trở về an hưởng Ngôi Tiên

Các con ở lại trần miền

Thương Thầy khuất bóng ưu phiền từ đây

Đạo cao cả ơn Thầy Thượng Đế

Tiếp hiền lương lập kế hóa hoằng

Thoát vòng nạn khổ tu thân

Thầy trò “im ẩn” dưỡng thần tại gia

Đạo tánh mạng, tam gia hiệp bổn

Dứt hận sân tâm hưởng thanh thanh

Chẳng màn quyền tước lợi danh

Kỳ công pháp đạo thừa hành từ đây

Con thấu hiểu lời Thầy di chúc

Đạo không người trong đục bảo ban

Thiểu duyên kém phước rõ ràng

Cậy nhờ con trẻ trần gian độ đời

Trên ngôi báu Thầy cười hoan hỷ

Nhìn đàn con đạo lý chung vai

Chia bùi xẻ ngọt đắng cay

Hữu tâm chí nguyện phò Thầy đạo cao

Mong đến hội bàn đào cộng hưởng

Thầy điểm danh ban thưởng ngôi thiên

Còn đây bí pháp chân truyền

Công phu tịnh tọa điển thiên trung lầu

Con thấy ánh Minh Châu phản chiếu

Choàng bạch y huyền khiếu khai thông

Chuẩn thằng quy củ đạo đồng

Tu rồi xem nhẹ trần hồng ái ân

Xem nhẹ cảnh phù vân danh lợi

Quý đạo mầu đã tới bến bờ

Các con hoằng pháp chuyển cơ

Là ngày trần hạ nương nhờ pháp luân

Chẳng còn khổ não trần bỉ thới

Không sợ sầu nghĩ ngợi hàn vi

Không còn vương sự ai bi

Không còn thảm cảnh hiểm nguy chiến tràng

Con được lệnh vẻ vang khác thế

Đạo đắc thành vẹn lễ oai nghi

Huyền cơ chánh pháp phò trì

Dũng đem chân lý cứu nguy hồng trần

Thôi Thầy gởi mấy vần lưu cảm

Nhắc tình đời bi thảm triền miên

Thầy về hoan hỷ Non Tiên

Tiếc thay đàn thiện chưa yên con à!

Nên phải chịu cách xa chúng tử

Đem lời vàng gìn giữ vào tâm

Kim Đính bạn hữu tình thâm

Nguyện thề giải thoát song lâm phản hồi

Nay đạo thành an Ngôi Cực Lạc

Cõi trần miền ghi tạc Thánh ngôn

Dưỡng thần tu luyện phần hồn

Ngày về nơi chốn thiên môn đến gần

Xưa cõi tạm vẹn phần chu đáo

Tình đạo đời hiếu thảo đáng khen

Biết đời giả tạm thấp hèn

Nên cùng giác ngộ tập rèn tánh linh

Hiện ở lại công trình công quả

Tử sanh là tạo hóa thường tình

Biết tu là cảnh hiển vinh

Xác trần xem nhẹ ta gìn cơ tiên

Biết nhập tận xuất huyền diệu tánh

Là ngày về thắng cảnh vinh quang

Các cháu nam, nữ hai hàng

Hà Thanh trao gởi điển quang thâm tình

Ngọc Anh tu vẹn gìn tiết tháo

Tánh hiền lương trí đạo viên minh

Nhớ câu công quả công trình

Từ bi bác ái khắc in vào lòng

Cõi phàm tục, đục trong ngao ngán

Biết tu rồi khai sáng huyền cơ

Hữu công phò đạo hiện giờ

Ẩn im một thuở nương nhờ đạo cao

Rồi đem đức hành trau danh dự

Hàng nữ nhi con giữ phận mình

Độ trong khắp cả chúng sinh

Lòng từ thiện mỹ “Chơn Kinh” trau giồi

Cháu Nguyệt Ánh tu bồi kiếp chót

Nghe lời vàng thanh thoát khác xưa

Rõ câu “Chánh Giáo Thượng Thừa”

Cẩn phòng khiêm tốn sớm trưa luyện thần

Chẳng bê trễ chuyên cần cháu ạ!

Tu khổ rồi cao cả vị ngôi

Chị em hòa ái tô bồi

Nhứt gia đoàn kết sau rồi vẻ vang

Cháu Liên Chi cũng hàng danh dự

Pháp tổ Thầy “Trung Thứ” bảo ban

Mỗi con tài đức vẹn toàn

Nhục tu nhẫn ái đoan trang thấy mầu

Đạo thường khảo ta âu một mực

Đạo chính là trí đức quang minh

Đạo mầu liễu tử siêu sinh

Đạo gìn bác ái chí tình độ nhân

Đạo cao quý tinh thần xán lạn

Đạo tánh là trừ đoạn oan khiên

Đạo thầy bí pháp chân truyền

Đạo Thầy “hô hấp” hạo nhiên khỏe rồi

Đạo tánh mạng là Ngôi Thượng Đế

Đạo chuyển luân bản thể tinh anh

Đạo mầu tịnh tịnh thanh thanh

Các con chung thủy thừa hành đạo cao

Cuộc trần thế chiêm bao nào khác

Bã lợi quyền thưởng phạt đớn đau

Nghiệp oan từ đó xâm vào

Khảo hàng đệ tử lao xao đọa đày

Thầy dạy trẻ Như Lai bản tánh

Tánh mạng là căn bản con ơi!

Nhìn lên thập tự cõi trời

Ngôi thiên chiếu diệu sáng ngời bửu châu

Thầy dạy trẻ đạo mầu khiêm tốn

Nhẫn nhục tu căn bổn thi hành

Các con ơi hỡi lòng thành

Lòng Cha yêu quý phải đành chia ly

Cảnh Tiên tục ra đi mãi mãi

Các con sầu ở lại trần nhơ

Dòng thơ chan chứa lệ mờ

Cũng tình huyết nhục bao giờ lại quên

Từ đây Cha bước lên Thiên cảnh

Các con sầu ấm lạnh trần ai

Ước mơ sum hiệp lâu dài

Trường sanh bất tử trên ngai điện vàng

Không còn cảnh trần gian tử biệt

Đắc lịnh truyền vận chuyển dòng thơ

Các con lưu cảm chẳng sơ

Cha già yên giấc lên bờ lạc bang

Tình đạo cả chứa chan bao rộng

Các con thường ước vọng thành danh

Hoằng khai đại đạo viên thành

Không màn chi cuộc lợi danh con à!

Giờ Cha gọi Huỳnh Hoa hiếu nữ

Giác ngộ tu gìn giữ vẹn toàn

Ví như tô điểm phấn son

Cho nền đạo cả vuông tròn hanh thông

Đời bỉ thới nao lòng khách tục

Con hiểu rồi vinh nhục trần duyên

Tĩnh tu trở lại ngôi thiên

Là ngày con được đoàn viên khác phàm

Đạo pháp diệu tu tâm luyện tánh

Tánh thuần lương con lãnh đạo mầu

Cũng rằng hòa ái trước sau

Trong, ngoài gia đạo, thanh cao con à!

Đạo minh luân vượt qua bỉ ngạn

Đạo muốn thành “bản dạng” phải nêu

Nêu cao phẩm hạnh đủ điều

Nào tài, nào trí, cao siêu con à

Đạo rất khó hiệp hòa hiện thực

Thì ngày sau thọ chức vinh quy

Thôi Cha để lại vần thi

Cháu con suy nghiệm vô vi nhiệm mầu

Nguyễn Văn Ba cận hầu đàn thiện

Nghĩ đạo mầu tỏ chuyện vô vi

Thương thay hiền học điều quy

Lo tu khiêm tốn phò trì đạo gia

Thật duyên phước Thầy Cha ban thưởng

Sẽ có đàn hiện tượng quang minh

Thưởng người tu học công trình

Thưởng người giác ngộ đạo minh cẩn phòng

Phu thê đổi tình nồng ra bạn

Bạn tiên rồi xán lạn công phu

Tại gia tu luyện cần cù

Biết đời đông hạ, sang thu lẹ làng

Một kiếp tục mơ màng hiền ạ!

Ngày đạo thành chánh quả vẻ vang

Chúc cầu tất cả bình an

Nữ, nam đạo lý đoan trang Thầy dành

Tưởng công đức Hà Thanh Chưởng Giáo

Bốn chín ngày nay thảo mật thơ

Có ngày định đoạt huyền cơ

Đạo mầu cao cả chẳng hờ hửng chi

Đồng tâm quyết phò nguy lập đạo

Thắng vạn ma nghiệp khảo lẫy lừng

Trường thiên tiếp gọi Minh Tùng

Hữu duyên hữu hạnh hiếu trung con à!

Nay vĩnh biệt phần cha tại thế

Con ở đời sinh kế nhọc nhằn

Tình đời nghĩa đạo cũng đồng

Con tu mới được thoát vòng sầu bi

Buồn nhìn thấy thạnh suy đời đạo

Con thông minh quý báu của cha

Từ đây vĩnh biệt cha già

Bùi ngùi nhìn lại cảnh nhà mến yêu

Trên ngôi vị sớm chiều lo lắng

Lo đạo đời nào chẳng đăïng an

Các con ở lại trần hoàn

Thương cha vì đạo vẻ vang phò trì

Đây là bức Tâm Thi Di Chúc

Cháu con đồng phủ thục hành y

Đừng cho đạo lý suy vi

Đừng màng thế sự hiểm nguy chân chùng

Thầy phổ độ khắp chung tất cả

Đệ cùng huynh hỷ hạ đáng khen

Biết nơi trần tục thấp hèn

Đăng Cao là cảnh vẻ vang con à!

Đó là pháp “Tam hoa tụ đảnh”

Đó là duyên đạo hạnh tu thân

Dù cho sang cả mười phần

Giàu sang gấm vóc cuộc trần tiêu sơ

Chỉ có tu lên bờ cực lạc

Con hiểu rành khúc mắc không sai

Đạo mầu con học giác hoài

Cùng nhau thi đức thi tài cha yêu

Nay lên xuống sớm chiều vắng bóng

Nhớ cha già ước vọng thành ngôi

Cháu con ở lại tô bồi

Lập nên đại sự cao ngôi linh đài

Buồn trong cảnh đổi thay đời khổ

Còn lắm phen cám dỗ phong ba

Thuyền từ một chuyến Long Hoa

Hữu duyên, hữu phận Thầy cha dắt về

Thôi Thầy ngự “Vân Thê” phản bổn

Các con tu khiêm tốn hành y

Đạo đời có lúc thạnh suy

Thì con nhẫn nhục, kiên trì lập nên

Giờ chúng thánh trước đền nghinh tiếp

Giã đàn mầu thanh khiết vinh quy

Noi gương Thầy học vô vi

Chuyển luân bí pháp độ trì chúng sanh

Trí Dũng bác đã viên thành

Đạo mầu cháu biết thực hành lễ nghi

Đệ huynh hoan hỷ phò trì

Đạo mầu hưng thạnh từ bi hóa hoằng

                 Thi

Hóa hoằng chánh giáo độ người tu

Mạt kiếp luân hồi khổ vạn thu

Long mã hà đồ quy cực lạc

Âm dương tánh mạng đạo công phu

Nhã hòa huynh đệ gìn toàn vẹn

Khiêm tốn chị em dạ tạc thù

Tùng bá thanh thanh nơi cực lạc

Mãn phần thành đạo được vân du

(Chánh Giáo Thượng Thừa)

Đàn lệ mùng 1 tháng 4 năm Tân Hợi Ngọ Thời

       Thiên Minh Đồng Tử

                Thi

Thần thông linh diệu pháp trau dồi

Quang mẫn linh tâm hỗn hợp đôi

Đồ thị nhân sanh cầm khiếu huyệt

Đệ trình quả đắc quả tường nôi

Thần Quang đồ đệ “Nhị Tổ” Ngã chào Hà Thanh Đại Sư, chào chư nam nữ linh căn , ngã giáng đàn giờ nay để báo tin cùng chư hiền có Đức Đạt Ma Tổ Sư ngự bút, chư hiền thủ lễ tiếp nghinh, ngã hộ đàn xuất ngoại.

                  Thi

Chơn pháp Đạt thành cướp hạo nhiên

Tinh theo Ma giáo đắc chơn truyền

Tuân lời Pháp nhiệm hành trau vẹn

Chẳng uổng tôn chịu lụy phiền.

                 Hựu

Lụy phiền trần trược giáng cùng thăng

Cạn tiến hết hơi bởi đạo hằng

Lẽ đạo vài vơi soi chí chúng

Dẫn dìu trở lại những nguyên căn.

        Bần đạo chào Hà Thanh Sư Trưởng, mừng nam nữ đàn tiền. Bần đạo mời chung an tọa.

                            Thi

Đạo pháp thâm thâm khó hiểu tường

Trí phàm hữu hạn để đo lường

Những gì cao tột sao tìm nỗi

Chí có Trưởng Sư mới hiểu tường

Dẫn chứng biện minh lời ẩn lý

Sơ cơ nhìn đó để tìm phương

Lên cao phải dụng nhiều thang nấc

Nhờ có Trưởng Sư dẫn lối đường

                 Thi

Giáo đạo kỳ ba khó bội phần

Nhân tâm mỗi mỗi chẳng toàn chân

Người cao, kẻ thấp không đồng nhứt

Chỉ dạy Lý mầu phải giải phân

Các đệ luyện trau Tâm Pháp rõ

Ẩn tàn Thiên Lý khép cân phân

Trở về Nguyên vị đi Đường đó

Cố luyện cố trau để hưởng phần.

                 Thi

Đôi lời Bần tỏ với Hà Thanh

Sư Trưởng Lý chơn đã hiểu rành

Đôi đoạn giải bày môn đệ rõ

Đề tài Bần chọn “Lý Vô Sanh”

Bần Đạo muốn nhờ Hà Thanh minh giải về Lý Vô Sanh. Muốn thoát khỏi luân hồi thời Con Người phải rõ Lý Vô Sanh và con người khi đã ngao ngán thế trần khổ sở tử sanh, hoạn họa muốn thoát khỏi luân hồi.

Vậy Pháp Sư giải rõ muốn thoát khỏi sanh tử, luân hồi con người phải làm sao?

Bạch Đại Tôn Sư:

Đề tài của Tôn Sư vừa nêu ra quá cao siêu mầu nhiệm, cần phải có đủ thì giờ mới thuyết minh nỗi.

Con chỉ giải bày sơ lượt đại cương, khi ra đàn con sẽ biện minh dẫn chứng theo sau.

Vô Sanh là nguồn gốc sanh thành, là cái Nguyên Lý đơn nhứt tối sơ căn nguyên của càn khôn vũ trụ vạn vật muôn loài.

Đã nói là nguồn gốc sanh thành, thì vô sanh không có nghĩa là không sanh gì hết mà gọi là Vô Sanh. Vô sanh mà có sanh cũng gọi không mà sanh. Bản nguyên là Chơn Vô phát động sanh Diệu Hữu thành một khối Toàn Chơn Vô Hữu, của trạng thái tinh thần Phật nói Nhứt Tự Tánh. Vô hữu hiệp sanh, biểu hiện ra hình hài của vật thể, một thể gồm chánh tà, chơn giả, mất bản thể toàn chơn xa vào vòng càn khôn chịu định Sinh Diệt của vạn hữu. Muốn khỏi luân hồi sinh tử, con người phải rõ Bản Mạt của chính mình, tìm phương giải thoát diệt khổ, tự lực trau giồi theo hướng tiến đáo bản lai đã chỉ dạy, thực hành Đạo Pháp cho đúng mức để quy hồi khởi điểm là lý vô sanh gọi là Nguyên Bổn.

                  Thi

Vô sanh Lý nhiệm đã phân bày

Nam nữ rõ tường đó “Lẽ Ngay”

Khởi điểm Vô Vi sinh hữu tướng

Này hoàn cựu vị một, không hai!

                Thi Bài

Đạo Vô Vi không hình không tướng

Đạo vô vi chẳng vướng bụi trần

Ngày đêm thanh tịnh nhàn thân

Luyện trau Đạo Pháp trong ngần nơi tâm

Đạo như thế không lầm lẽ đạo

Đạo đi gần thiện bảo Trời Cha

Đạo này tột đỉnh cận Già

Đạo này rốt ráo hồi gia rất gần

Đạo hữu tướng nơi trần nhìn thấy

Mãi hô hào chác lấy hận hờn

Đạo không tròn đạo khổ hơn

Đạo mà thiếu Nhẫn thiếu Chơn nguy nàn

Rồi những cuộc kinh hoàng thảm khốc

Đạo hữu hình nát óc lao thân

Hiểu rành trẻ ráng gìn thân

Toàn chung học đạo, luyện thân trau giồi

Tu là để phục hồi cựu vị

Tu không cần, luyện kỷ trau thông

Tu không chác việc trần hồng

Tu không mê nhiễm nơi lòng người tu

Khi đã quyết vẹt mù tiến bước

Hãy dò lần mực thước đường tu

Tự mình soi rọi đường đi

Tự mình trau luyện hoàn quy pháp mầu

Nhờ Chơn Sư đuôi đầu chỉ dạy

Cố công dồi sai chạy đừng nên

Siêng năng bồi đắp móng nền

Tự mình tạo lấy tuổi tên cho mình

Minh Sư dạy tất tình cặn kẽ

Phần thực hành mọi lẽ do mình

Phải đâu kẻ khác đưa mình

Trở về nguyên vị thình lình được đâu

Cố gìn đạo, pháp mầu gắng luyện!

Bền tâm lo bước tiến ngày đêm

Tứ thời giữ vẹn im lìm

Luyện trau Đạo Pháp thoát miền phàm gian

Đã hiểu rõ trần gian giả tạm

Đã biết đời là đám phù vân

Biết tu quý báu nơi trần

Thời còn chi nữa chẳng lần bước đi.

                  Thi

Đi đến Tây Phương toạ pháp thoàn

Bao nhiêu khổ nhọc chốn trần gian

Thật là không uổng bao ngày luyện

Đắc quả thảnh thơi được hưởng nhàn.

                 Thi

Đạo trau Huệ đắc toại tâm người

Chơn pháp Năng hành được tốt tươi

Ngày tháng Lục tam không khó lắm

Đắc thành Tổ chứng hưởng yên nơi

Bần đạo chào chư nam nữ, giờ nay nhân buổi hợp mặt đầy đủ chư hiền, bần đạo chủ trương buổi luận đạo để nâng cao sự Hiểu Biết của các Đạo Tâm. Với phần luận vừa qua lão sẽ giải tường, nhưng trước khi giảng giải, đạo hữu hãy nghe Hà Thanh lược giải. Bần đạo mời Sư Trưởng Hà Thanh hãy giải cho chu đạo hữu tường tri Nguyên Lý.

Bạch:

Đã nói là Đạo luận, một buổi luận “Đạo rất to” thì phải ý thức kỹ lưỡng, chớ nên lầm lẫn Tiên Thiên Vô Vi Đại Đạo với Hậu Thiên Hữu Hình tiểu đạo, để đặt cho đúng nguyên lý thì luận giải mới trúng.

Hữu hình hữu tướng thuộc Hữu Hạn có thể nào nói là tuyệt đối được, chỉ có Hư Vô mới là vô lượng vô biên, vô cùng vô tận. Quen sống muôn đời với vật thể bao giờ cũng đứng trên quan điểm ngoại pháp tướng mà nhận xét bỏ rơi nội pháp tánh.

Đây là nhánh nói đời sống lớn lao trường tồn vĩnh cửu của linh hồn. Phải suy diễn tìm Cha Mẹ của linh hồn mà thế nhơn, người ngoại giáo bỏ rơi không hề nghĩ đến.

Tôi lặp lại sơ lược những lời tôi đã bao lần giải bày mà ít ai cố gắng lĩnh hội để ghi nhớ mới lún tún nói không ra lời như đã thấy vừa qua.

Nguồn gốc của người là Vô Vi sanh ra hữu tướng Phật gọi là Lý Vô Sanh đã nói rõ đàn trước cách đây một tháng.

Khi chưa có Trời Đất cũng như chưa có ta, chỉ có một linh khí rộng không biết bao lớn, mờ mờ mịt mịt không biết bao lâu gắng gượng đặt tên là Hư Vô Mẫu Khí cũng xưng là Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn, mẹ đẻ muôn loài vạn vật và là đức từ mẫu của tất cả Phật Thánh Tiên. Cái Bản Thể Hư Vô cực tịnh phát động phóng ra một vầng Đại Quang Minh là Thái Cực, Mẹ sanh con.

Thái Cực Đại Linh Quang nguyên khí hàm chứa cảõ động tịnh âm dương nhị khí là Trời Đất tức nhiên là Đức Cha, Đức Mẹ của linh hồn rồi. Khối Đại Linh Quang chiết thân hạ trần để thực hiện tạo hóa chi cơ, để chứng minh Đạo Pháp có thực dụng chớ chẳng phải hư huyền lý thuyết, nếu nó cứ ở chỗ vô vi không chơn hoài thì làm sao có được Thiên hình vạn trạng sinh hoạt trong vũ trụ nên nói vô vi nhi vô bất vi, vô mà sanh hóa. Do đó hòa hiệp của trời đất âm dương ngưng tụ biểu hiện ra hình hài. Hình hài biểu hiện ra vạn vật chỉ là cơ thể mà thôi, nó tiếp thu một phần tiên thiên nguyên tử ẩn tàng bên trong để làm linh hồn cho lẽ sống. Cái phần tử linh hồn của vũ trụ nhập vào ẩn trú tong tiểu thiên địa gọi là Thiên Tử hay Thiên Hạ. Sơ sinh, còn non kém, chừng đến 16 đến 20 tuổi, cái vóc tiên thiên ấy đầy đủ như hằng nga đôi tám. Biết hữu dụng cái vóc tròn sáng ấy, khởi sự từ Hữu Về Vô là phản huờn Nguyên Bổn.

Bằng không, khi tinh thần cùng thể xác song song nảy nở đủ đầy, đến thời kỳ phát dục đúng tuổi dậy thì, bị cái động lực ấy thúc đẩy sa vào hồng trần ô trược vì lẽ đầy phải tràn biến sanh phàm pháp ra ngoài càn khôn của mình để sanh hóa ra cái giả hữu, nguơn thần, nguơn khí sanh giao cảm chi tinh là chúng sinh chủng, giết hại Cha Mẹ lần mòn vì lẽ dầu hao, hơi lụn, ngọn huệ đăng tắt như vậy là con bất hiếu. Cái gia tài cha mẹ giao phó cho khi ra đi, bị đứa con hư phá tiêu tan hết, lấy gì làm phương tiện trở lại.

Bây giờ biết lẽ Dinh Hư, Tiêu Trưởng, có đi là phải có về theo lý thiên địa tuần huờn châu nhi phục thủy. Nương cái vóc tiên thiên còn đầy đủ, mượn đó an thần nhập định trở về nguồn gốc vô sanh.

Bằng rũi ro, đã sa vào hồng trần, chìm nơi bể khổ, bảo vật hư hao sức mẻ, phải biết nuôi tinh, dưỡng khí, tồn thần để bổ khuyết cho ngọn đèn tâm đăng của mình trở lại nguồn sáng, viên minh tròn đủ là mình đã làm đẹp dạ, đã dưỡng nuôi cha mẹ làm cho làu làu rạng rỡ, vinh tổ hiển tông, nói là di hiển kỳ phụ mẫu, hiếu chi thủy giả.

Lục tổ kệ: Đầu thượng dưỡng thân Khẩu lý tu san

Ngộ mãn chi nạn Dưỡng liễu di quan

“ Cha mẹ thiệt” ở trên đầu của chính mình là khối tâm tánh gồm luôn cả Diêu Mẫu và Thượng Phụ, phải lo nuôi dưỡng cũng nói tu tâm luyện tánh, bồi bổ cái khuyết, sửa chữa cái hư để trở nên hiếu tử của Đại Đạo, của Chơn Pháp, khác hẳn với thế gian tà pháp trên đây là hình thức lý thuyết TRI phải HÀNH, phải tìm hiểu cho tột cùng để hành y theo Chơn Pháp của Lục Tổ: (Đốn củi đổi gạo nuôi mẹ và dùng Bạch Kim của khách mua củi an chí đức mẹ rồi lên đường trau luyện cho nên Đại Sư nên Tổ.”

Con nói sơ lược như vậy, ra đàn con sẽ bổ túc dẫn chứng biện minh thêm cho dễ hiểu, Bí Pháp luận hoài không hết.

Bần Đạo mời chư nam nữ tọa thiền nghe Bần Đạo điểm phê.

Theo lời giải của Sư Trưởng Hà Thanh như thế là rất đúng, có thể tóm lại rằng muốn trở thành một người con chí hiếu thì phải biết dưỡng nuôi Cha Mẹ, phải làm thế nào cho Cha Mẹ hài lòng. Bần Đạo chỉ nói thế, nếu chư hiền chưa rõ thì hãy tìm Pháp Bửu Đàn Kinh để tường tri.

          Ngày trước Huệ Năng cũng đã trải qua một thời kỳ dưỡng nuôi Phụ Mẫu còn ghi rõ trong Pháp Bửu        Đàn Kinh.

Cuộc đời hành đạo tu thân, cứu thế độ nhân của Đức Cố Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh là một tấm gương sáng chói cho toàn thể môn đồ Chiếu Minh, một người hướng đạo tài ba, đạo pháp lỗi lạc đã cống hiến trọn đời để dẫn dắt nguyên căn tìm về với đạo tu hành giải thoát.

Thật công đức vô lượng- ứng hiện theo lời dạy bảo của Đức Đại Từ Phụ.

“Nơi nào có mặt Bùi Hà Thanh cũng như có Thầy:

Ngày nay đệ tử trở thành Chí Tôn....”

Đức Cố Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh triều thiên đắc vị Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Ba năm sau Đức Bà Phan Kim Đính tu hành liễu đạo đắc vị Kim Mẫu Diêu Trì (Thánh Ngôn Chánh Giáo Thượng Thừa)

Thật vẻ vang thay cho một gia đình Đạo Cao Đài Chiếu Minh, Thượng Đế lâm trần cứu độ sinh nhân và Bùi Gia rạng rỡ trong sứ mạng cứu thế độ đời, chia ngọt xẻ bùi đến khắp cùng thiên hạ

                                                                  Trở Lại Mục Lục

                     Mời xem tiếp         :  Lược về Tam Bộ Chiếu Minh

                                                       Chiếu Minh Tây-Du Chơn Giải

                                                    Pháp Bảo Đàn Kinh Đông Độ Thiền-Tông