Trước Tiết Tàng Thơ

Ðàn lệ: Rằm tháng 5, năm Kỷ Mão, Tý thời (1-7-1939).
        
     CAO ÐÀI TIÊN ÔNG, Thầy mừng các con. Thầy miễn lễ. Các con nghe dạy:
     Thầy hằng độ những con biết hạ mình và hay xét lỗi mình mà không tự cao tự đại, mến đạo chẳng rời đạo, một tiết cầm lấy mối khẩu thọ tâm truyền của Ðạo Thầy, hầu khỏi rày chinh mai lịch cho đạo Thầy vĩnh viễn trường tồn. Ðược vậy một là đời gặp đạo chánh, hai là các con gội ân lành thì quí giá có chi bằng.
        
     TRƯỜNG THIÊN:
     Ðạo cao Thầy nắm chủ quyền,
     Thưởng ban những trẻ bổn nguyên chẳng rời;
     Nhứt tâm gìn lấy đạo Trời,
     Tuân câu thiên mạng, y lời đinh ninh.
     Thanh liêm thường tập tánh linh,
     Không khoe đạo đức ỷ mình như ai!
     Hằng noi giáo lý Cao Ðài,
     Giữ lòng thanh tịnh dở hay chẳng bàn.
     Tháng ngày lo dứt dây oan,
     Ðạo đời hai lẽ quyết toan cho tròn;
     Ðạo lo luyện, đức lo bòn,
     Trong hàng đệ tử đáng con thảo hiền.
     Hành chánh đạo giữ Chơn Truyền,
     Không lòng canh cải mối giềng Vô Vi;
     Vẹn gìn ngũ giới tam qui,
     Một câu danh lợi không bì với ai.
     Ngày nay chứng vị Liên Ðài,
     Tên đề "Minh Huấn" là ngày thiên phong;
     Chí nhơn nhuần gội ân hồng,
     Thầy truyền dụng phép huyền công giáng đàn.

        
Ngày nay là ngày Thầy ân phong cho
"MINH HUẤN" "ÐẠO ÐỨC KIM TIÊN".
Vậy các con nên hiểu.
Thăng.
(Tiếp Ðiển)

     THI:
     ÐẠO thành nhờ giữ đúng Chơn Truyền,
     ÐỨC tốt không làm sái bổn nguyên.
     KIM thạch hằng gìn câu chánh niệm,
     TIÊN Ðài nay đặng tọa Kim liên.

        
     Giờ nay bần đạo đã đắc lịnh Thầy giáng đàn mừng chư đạo hữu và cũng có nhiều quan niệm về đạo đức.
     Từ ngày bần đạo được Ðơn Thơ chiếu triệu về Thầy đến nay bần đạo mới rõ luật Thiên Ðình chẳng riêng vị, một mảy không sai với người tội phước. Chư đạo hữu nên hiểu: người tu vào bực ÐẠI THỪA hành đúng Chơn Truyền chẳng trái lý đạo thì Thầy điểm hóa, đến ngày lâm chung Ðơn Thơ chiếu hạ mới đặng chứng quả vị gần Thầy. Còn người tu mà hay dùng tự ý làm cho trái lẽ tự nhiên, hay sanh sự và tưởng sự quấy là hay là phải, chẳng tuân thiên ý, dầu có tu cũng khó mang kết quả; đến ngày lâm chung ngươn thần xuất được mà chẳng có Ðơn Thơ thì đâu về chứng quả đặng. Chừng ấy ăn năn đã muộn, phải chịu dưới quyền luật thưởng phạt của Tạo Hóa! Vậy chư đạo hữu phận sự hãy do theo Chơn Truyền mà hành cho đúng lý thiên nhiên. Ngoài những lời Thầy truyền chẳng nên nghe, vậy mới ngăn ngừa cơ Ðạo sau nầy khỏi sai tôn chỉ; bởi vì Ðạo Thầy truyền xuống thế để độ những người nguyên nhơn nào phải độ kẻ hóa nhơn. Ấy là cơ tuyển độ: Nếu chư đạo hữu chẳng để cho Thầy lừa lọc mà dùng tự ý độ kẻ hóa nhơn xen vào làm cho rối Ðạo sanh thêm điều khảo đảo, mượn lấy danh Ðạo mà làm cho nhơ Ðạo. Vậy từ đây chư đạo hữu khá dè dặc cho khỏi trái ý Thầy thì sau khỏi ăn năn.
        
     THI:
     Nỗi Ðạo vì người phải đắn đo,
     Thì sao cho đáng phận làm trò;
     Thà nương ngọn phướng Vô Vi nhỏ,
     Hơn phất cây cờ dục vọng to.
     Ông Tạo sẵn gầy đường sáng suốt,
     Xe trần nên tránh nẻo cong co;
     Vui buồn mét thót đôi câu chuyện,
     Hay dở đừng phê chỉ gắng dò.

        
     Bần đạo hỉ chư đạo hữu.
        
     Thăng

  Ðàn lệ: Mùng 1 tháng 7, năm Kỷ Mão, Tý thời (5-8-1939).
        
     THI:
     ÐẠO Trời muốn khỏi nạn chênh nghiêng,
     ÐỨC nhuận khuyên ai giữ mối giềng;
     KIM đảnh chớ cho vàng lộn đá,
     TIÊN truyền Chánh Giáo mới còn nguyên.

        
     Bần đạo mừng chư đạo hữu.
        
     Bần đạo thừa lịnh Thầy giáng Ðàn tỏ cùng chư đạo hữu một cuộc vui buồn lẫn lộn ấy khiến cho bần đạo phải nhọc nhằn vì Ðạo, phải đớn đau bởi ai... Ðạo chỉ dùng "không một đổi hai", ai nỡ thích trước vầy sau khác!
        
     THI BÀI:
     Vui là lúc Trời ban ơn huệ,
     Vui là con người thế gội nhuần,
     Vui câu tục mỹ phong thuần,
     Vui nền Ðại Ðạo trùng hưng độ đời.
     Vui gặp lúc Thầy Trời ra mặt,
     Vui đức tràng nam bắc đông tây,
     Vui xem giáo lý Cao Ðài,
     Vui còn phép nhiệm trong ngoài một pho.
     Vui biển khổ con đò sẵn chực,
     Vui nền thanh treo bức họa đồ,
     Vui vì phụng núp tàng Ngô,
     Vui còn giếng rượu Ðồ Tô cứu đời.
     Vui cõi tục gặp Trời truyền giáo,
     Vui người trần thấy Ðạo Vô Vi,
     Vui đã lộ máy huyền ky,
     Vui trong cơ Tạo quang huy chuyển thường.
     Vui sẵn có con đường chánh đại,
     Vui người lành trở lại căn xưa;
     Vui trong tâm pháp Ðại Thừa,
     Vui trong bốn buổi rước đưa Ngươn Thần.
     Vui rạng vẻ trùng tân nhựt nguyệt,
     Vui hồng ân đời biết Ðạo mầu,
     Vui lời nhả ngọc phun châu,
     Vui là Thầy để những câu Chơn Thường.
     Vui lấy đó làm phương thoát khổ,
     Vui người tu thấy chỗ diệu huyền,
     Vui về nẻo Phật đường Tiên,
     Vui câu Thuấn nhựt Nghiêu thiên cõi đời.
     Buồn những nỗi Ðạo Trời chênh lệch,
     Buồn cải canh dấu vết lộ rồi;
     Buồn "tôi chẳng đáng mặt tôi",
     Buồn "tôi để Chúa lắm hồi đớn đau!"
     Buồn nỗi muốn tháo rào tự ý,
     Buồn nỗi toan để quỉ choán quyền;
     Buồn không giữ lý tự nhiên,
     Buồn làm sau trước mối giềng khác xa.
     Buồn chưa rõ Phật ma hai lẽ,
     Buồn chẳng tuân cặn kẽ lời Thầy;
     Buồn nào hiểu nỗi đắng cay,
     Buồn đầu chót lưỡi khoe tài thông tri.
     Buồn thiếu lượng từ bi bác ái,
     Buồn giấu mình vạch mãi lỗi người,
     Buồn không để Ðạo tốt tươi,
     Buồn làm cho Ðạo tiếng cười lụy tuôn.
     Buồn gây lấy một luồng gió nóng,
     Buồn người tu cách bóng xa hình;
     Buồn vì rày lệch mai chinh,
     Buồn đâu gây lấy tình hình rẽ chia!
     Buồn nỗi Ðạo phải lìa tôn chỉ,
     Buồn nỗi đời tự thị thói quen,
     Buồn không chịu thấp chịu hèn,
     Buồn trai lãnh lấy tiếng khen tiếng đùa.
     Buồn là nỗi ngọt chua hai giống,
     Buồn là vì Ðường Tống chia phui.
     Buồn vui đã mất cuộc vui,
     Buồn vui có lẫn cái mùi bi ai.
     Buồn về nỗi: "Cao Ðài Sư Phụ",
     Buồn thấy trò đứa ủ đứa tươi;
     Buồn chưng người lại chìu người,
     Buồn chưng người chẳng sợ Trời mới gay!
     Buồn nỗi Ðạo trong ngoài chẳng hạp,
     Buồn chênh lòng sanh nhạp khảo hoài,
     Buồn làm miệng thế mỉa mai,
     Buồn làm giáo lý Cao Ðài người khinh.
     Buồn nỗi thế muốn mình vừa ý,
     Buồn biện lời trái lý phỉnh người,
     Buồn không đáng mặt độ đời,
     Buồn không thủ phận phải người nêu gương!
     Buồn chỗ quấy cứ chường mười mặt,
     Buồn nẻo mờ cứ dắt người đi,
     Buồn hò hai chữ "từ bi",
     Buồn không thứ kẻ ngu si dưới mình.
     Buồn vì đó mà chinh mà lịch,
     Buồn chẳng quen cái nghịch ý mình,
     Buồn sanh những việc bất bình,
     Buồn cơn rắc rối vì tình ghét ưa.
     Buồn vì cơ Ðại Thừa Ðốn Giáo,
     Buồn huyền vi máy Tạo muốn ngừng,
     Buồn vì kẻ tục lẫy lừng,
     Buồn không nhận lỗi không tuân mạng Trời!
     Buồn ráng để đôi lời quê kịch,
     Buồn khuyên ai chút ít xét thầm,
     Buồn vui vui biết tỉnh tâm,
     Buồn nầy chớ để câu dầm chẳng nên!

        
     Thánh giáo nầy nên gởi cho các đàn. Kiếu.

Ðàn Mùng 1 tháng 4 Canh Thìn, Tý thời (7-5-1940).
        
     THI:
     CAO là chớ lỗi bước đường tu,
     ÐÀI đạo ra tay vẹt ngút mù;
     GIÁO lý Cao Ðài chơn giả biện,
     CHỦ tâm có thuở cá nên cù.

        
     Thầy mừng các con, Thầy miễn lễ, các con an tọa.         
     Thầy thấy cơ Ðạo lắm cơn khảo đảo, nhưng khảo đảo ấy cũng bởi lòng các con gây nên. Nếu các con muốn gỡ rối về quan hệ ấy ít nhiều, thì các con phải thành lập chữ tu cho đúng chữ tu, rồi các con sẽ thấy cái kết quả thuần mỹ của cơ Ðạo.
        
     TRƯỜNG THIÊN:

     Tu là cốt vì Thầy vì Ðạo,
     Tu là phương phải thạo phải tường,
     Tu không để lỗi bước đường,
     Tu câu đức hạnh làm gương độ đời.
     Tu nên biết có Trời xuống thế,
     Tu nên nhìn đuốc huệ Trời soi;
     Tu theo Thầy dạy rẽ ròi,
     Tu câu thanh tịnh giấu mòi diễn phô.
     Tu đáng mặt tín đồ Ngọc Ðế,
     Tu đừng làm ô uế danh Thầy,
     Tu không biết bẹo tài hay,
     Tu theo nề nếp Cao Ðài thuở xưa.
     Tu học hiểu Ðại Thừa chánh lý,
     Tu đồ theo Thiên ý lưu hành,
     Tu lo vun đắp nền thanh,
     Tu là dìu dắt chúng sanh về Thầy.
     Tu qui bởi vui vầy sum hiệp,
     Tu từ bi tương tiếp cho nhau,
     Tu mình khỏi tánh tự cao,
     Tu thương kẻ dưới lỗi nào cũng dung.
     Tu đôi chữ Trung Dung cho chính,
     Tu bề trong giữ kín bề ngoài,
     Tu không biết vị vì ai,
     Tu theo qui củ Cao Ðài đó thôi.
     Tu trước phải vun bồi công đức,
     Tu Vô Vi giữ mực giữ chừng,
     Tu thì mạng lịnh khâm tuân,
     Tu tin cơ bút chín từng có Cha.
     Tu đạo chánh lòng tà dứt bỏ,
     Tu tầm cho thấy ngõ quang minh,
     Tu nên diệt thói hữu hình,
     Tu câu chí thiện tánh tình lặng trang.
     Tu là giữ hoàn toàn Ðạo đức,
     Tu nên tường thiên chức người tu,
     Tu lòng như bóng trăng thu,
     Tu câu chánh kỷ lạc thù lương năng.
     Tu đâu để lố lăng quen thói,
     Tu quên mình trí giỏi tài hay,
     Tu là bít lấp ngơ tai,
     Tu đâu bài bác sanh hoài thị phi.
     Tu giữ lượng từ bi bác ái,
     Tu đừng tranh lẽ phải cho mình,
     Tu đành kẻ dễ người khinh,
     Tu cam hèn thấp mặc tình khen chê.
     Tu tập lấy thói quê tuồng dốt,
     Tu cửa "Không" then chốt chặt gài,
     Tu đành ngậm đắng nuốt cay,
     Tu cho nền đạo Cao Ðài vẻ vang.
     Tu chớ bỏ con thoàn siêu thoát,
     Tu Vô Vi tạo tác vừa chừng,
     Tu không nay lẫy mai lừng,
     Tu đừng dục vọng lửa bừng cháy lan.
     Tu khá giữ lời vàng Thầy dạy,
     Tu Ðạo Trời chẳng hoại mới tu,
     Tu nào há để gương lu,
     Tu nên phân biệt hiền ngu khác vời.
     Tu chớ để người đời sai Ðạo,
     Tu chớ làm máy Tạo ngừng xây,
     Tu sao tiếng Ðạo thơm lây,
     Tu sao tâm pháp một ngày một cao.
     Tu lánh chốn ồn ào đô hội,
     Tu phải tường nguồn cội chữ tu,
     Tu đừng mắc mớp người ngu,
     Tu ngừa mây khói án lu mặt Trời.

        
     Thầy ban ơn chung các con. Thăng.


        
     Ðàn lệ: Rằm tháng 4, năm Canh Thìn, Tý thời (21-5-1940).
        
     THI:
     CAO thanh giữ lấy rạng danh Thầy,
     ÐÀI đạo chơn truyền chớ đổi thay,
     TIÊN Phật sửa mình đâu lỗi nguyện,
     ÔNG Trời mới độ đến cung mây.

        
     Thầy mừng các con.         
     Thầy miễn lễ các con tịnh tâm nghe dạy:
        
     THI BÀI:
     Tu chữ Ðạo cho đời khâm phục,
     Tu làm sao khỏi nhục danh Thầy,
     Tu đừng làm lụy cho ai,
     Tu đừng để thói thày lay khiển mình.
     Tu mỗi mỗi đừng tin kẻ mới,
     Tu căn cơ đừng nới chuẩn thằng,
     Tu câu đạo đức trang bằng,
     Tu câu chánh kỷ mà răn lòng tà.
     Tu cho đúng ý Cha ngày trước,
     Tu ưa làm cội phước nền nhơn,
     Tu không để Ðạo mẻ khờn,
     Tu không bày vẽ kép đơn tuồng xằng.
     Tu một mực không tăng không giảm,
     Tu thanh liêm chẳng lạm của người,
     Tu cho miệng thế khỏi cười,
     Tu hằng vun bén tốt tươi cội lành.
     Tu đừng chuộng cái danh độ thế,
     Tu vì điều phải lẽ mới làm,
     Tu nên dứt tánh dua dàm,
     Tu đừng dụ chúng mong làm tài ngoa.
     Tu chẳng phải lập tòa lập thất,
     Tu cứ lo âm chất hoàn toàn,
     Tu câu "chùa rách Phật vàng",
     Tu không đô hội rộn ràng phái chi.
     Tu biết máy huyền vi Ðại Ðạo,
     Tu nên ông kiến Tạo làm Thầy,
     Tu đừng khoe giỏi khoe hay,
     Tu thì xa chạy cao bay khá chừa.
     Tu Ðại Ðạo nên lừa nên lọc,
     Tu độ nhơn dục tốc bất thành,
     Tu thì làm tiện chúng sanh,
     Tu không bày việc vòng quanh hại đời.
     Tu phân biệt tuồng Ðời lý Ðạo,
     Tu đừng cho đổ tháo mối giềng,
     Tu sao trúng nẻo Tiên thiên,
     Tu đừng với thế bạc tiền góp thâu.
     Tu mựa chớ mua trâu vẽ bóng,
     Tu phải nào làm rộng làm cao,
     Tu xa những chốn ồn ào,
     Tu là yêm ẩn pháp trao y hành.
     Tu phận sự đừng tranh truyền giáo,
     Tu cứ trong luật Ðạo Cao Ðài,
     Tu không thương ghét vì ai,
     Tu sao thế gọi là tay công bình.
     Tu đừng để kẻ chinh người lịch,
     Tu việc đời nên bít mắt tai,
     Tu cho tiếng Ðạo thơm hoài,
     Tu vầy mới đáng là tay con Trời.

        
     THI:
     Trời đã gây nên mối Ðạo vàng,
     Ai người huệ trí giữ cho an;
     Nhủ khuyên lắm lúc lời sâu cạn,
     Chữ dạ ân hồng sẽ gội chan.

     Thầy ban ơn chung các con. Thăng.

Trở lại trang chánh