HỮU BẰNG

Trước cùng sau một màu khuyên người đời đừng phai lợt,
Chữ hữu-bằng là niềm chia sớt đậm lợt của kiếp sanh tiền,
Hỡi khách trần ôi! Nhớ lời xưa kết chặt Ðào-Viên,
Mà gìn vẹn những lời thề nguyền cùng sanh tử.
Hễ làm người thì phải ân cần niềm bạn lử,
Kìa xưa gương quân-tử biết bao ngằn,
Tu là nguyện khi giỡn nguyệt với chơi trăng.
Khi đắt quả phỉ dạ trang bằng dường mặt bể soi trăng khi an tịnh.
Ðời là cảnh khổ trầm luân thường dấp dính,
Ðể dẫn người đến nơi nhứt định là cõi U-Minh;
Bởi công danh, phú quí, với sự dục tình,
Mà níu kéo biết bao nhiêu sanh linh vào trong hang tối!
Cuộc phú quí, than ôi! Ta coi dường mây nổi,
Mới nghinh-ngang thoạt gió thổi tan rồi,
Nơi Bồng-Lai thong thả biết bao hồi,
Cờ Tiên rượu cúc, khi đứng ngồi đều thú lạc!
Mà chư Tiên thường cùng nhau đệ-huynh ký thác,
Cũng có hữu-bằng để chung vui bàn bạc sự linh-thiêng,
Vậy ngày nay các trò đà gặp Bát-Nhã thuyền,
Rán nương cậy giữ mối giềng hữu-bằng mà cầu truyền phép Ðạo.
Xưa họ Lưu lấy làm ngay thảo, bạn Quan Trương hằng giữ đạo thuận hòa,
Trải bao phen tế độ nước nhà,
Lắm cơn nhọc vì Hớn-gia chia làm ba ngôi thứ,
Vậy mà chí đệ-huynh hằng để tâm cư xử,
Vẹn một lòng biết sự tử chớ không giữ mạng sanh.
Ngày hôm nay các trò đà lập chí tu hành,
Tình đồng-đạo dạ bao đành chia phanh manh-mún!
Các trò ôi! Phải gìn giữ cùng nhau một bụng,
Mà dắt dìu nhau cho khỏi nơi lúng túng là bể trầm luân,
Dầu nữ nam cũng rán gia công lo cho tục mỹ phong thuần,
Tình đồng-đạo Lão khuyên đừng chia phe cùng rẽ phái.
Ðứa khôn rán mà tế độ lần người dại,
Nghĩa đồng môn phải trái giữ nhau cùng,
Vậy mới là vẹn vẽ chữ tín-trung, rán lập chí thỉ chung hòa nhứt mạch.
Lời hồng thệ trò đà thiết thạch,
Há đành phân chủ khách mà oán trách Ðạo-Trời?
Rán chí tâm ăn nói phải lựa lời,
Khuyên thành kỉnh chớ lơi, người ôi! e phải đọa!
Ðó là bạn hữu nhứt ngôn thuyết quá...
Gìn vẹn ân đừng dối trá mà phá Ðạo Chí-Tôn,
Muốn sau thong thả cả xác hồn,
Khuyên trò rán giữ tôn tình liên hữu.
Sài, Triệu, Trịnh khi xưa tề tựu,
Chí trượng phu ái hữu với liên bằng,
Mấy phen đường tên đạn khôn ngằn,
Mà không nệ hòng lóc lăn cùng huynh đệ.
Hỡi khách trần-ai có người nào chí công đến thế?
Hay là đời thường mưu kế mà rẽ chia?
Tình hữu-bằng xưa còn đá tạc danh bia,
Nay trò chớ nên chia lìa niềm đồng-đạo.
Dầu khi nào cũng chí tâm ngay thảo,
Chớ phân rằng khác Ðạo mà chẳng nhìn,
Mở lòng nhơn cho rộng hầu tế độ cả sanh linh,
Người bị hiếp đáp chẳng ai binh, kẻ lụy mình vì cơn khổ.
Tùy sức trò mà ra ơn tế độ,
Khuyên đừng lòng ái ố tỏ ra bộ hảnh kiêu;
Cuộc đời tàn, Phật Thánh Tiên còn giáng thế mà dắt dìu,
Huống chi người ở thế nỡ đành liều kiếp sanh tiền cho đặng.
Hễ công quả vẹn, nương mây dặm thẳng,
Ðến tận nơi ngọc sáng các tòa,
Hưởng thanh nhàn còn vui hơn cảnh lạc thú phiền ba,
Chơi cờ Thánh còn mạnh hơn uống rượu trà của thế sự.
Chuông cảnh tỉnh đánh vang độ người quân-tử,
Trống Lôi-Âm đã giục chia thế sự ra hai nơi:
Kẻ đạo-tâm, người ưu thế mẫn thời,
Cùng những hạng mê đời đành phụ lời giáo hóa.
Trò mở tâm đặng đem mấy lời vào chạm xương ghi dạ,
Cõi hồng trần chớ khá ở lâu,
Giải phú thi mà độ người cơn thảm với lúc sầu,
Xem thời thế khá lo tu kẻo âu không khỏi bầu tang thương xảy đến.
Vì ái chủng lòng già yêu mến,
Mới phân qua dạy đến việc đời,
Ấy là hữu-bằng hạp với Ðạo Trời,
Trò rán nhớ chớ lảng lơ mà sau có lắm lời ăn năn tự hối!

Thi:

Hối thúc người đời tỉnh giấc mê,
Thuận hòa huynh-đệ với phu-thê,
Hữu-bằng vẹn vẻ niềm đồng-đạo,
Ấy đặng yên thân vẹn chữ đề.
Ban ơn chư hiền-ân. Có Di-Ðà ngự giá. 

   Thăng.

LINH-QUANG THỔ-ÐỊA

Chậm chậm bước theo lằn gió rải,
Tiếp mùi trầm ghé lại hỏi thăm;
Hỏi người nạn khổ mấy năm?
Hỏi người có biết đạo-tâm không người?
Hỏi vậy chớ mấy mươi rồi chết?
Sao không lo gỡ hết tội tình?
Hỏi rằng cái kiếp phù-sinh,
Thoạt còn thoạt mất chôn mình làm chi?
Danh lợi hỏi có ích gì?
Vô-thường lắm khổ, dẫn đi Huỳnh-Tuyền.
Hỏi sao người chẳng cần chuyên,
Mảng vui cái kiếp đảo-điên trò đời?
Phiền ba náo nhiệt lưng vơi,
Biết bao đau đớn bớ người lương tâm!
Chi bằng chịu khổ vài năm,
Mà sau thong-thả đôi trăm thu trời.
Cõi trần giả tạm ai ôi,
Sớm theo chánh lý, thác hồi Cung-Tiên.
Thung dung là chốn cung Thiên,
Nghêu-ngao bốn bể, đảo điên là trần.
Nhành dương quét sạch bợn thân,
Cam-lồ tắm gội bụi trần tiêu tan.
Khuyên ai bước kịp khoa tràng,
Hò xê lóng rõ, xự xàng kiếm nghe.
Phấn tâm nổ lực đi hè!
Ðịa vui, Ðịa nói, pha chè Ðịa chơi.
Ðờn cho rõ lý Ðạo-Trời,
Ðờn cho biết Ðạo, biết người, biết danh.
Ðờn kêu phụ-tử quân-thần,
Ðờn rao kẻ thế nay gần tang thương!
Ðờn kêu mấy kẻ hiền lương,
Ðờn Tiên thức tỉnh mộng trường chúng sanh.
Ðờn kêu kẻ sĩ tu hành,
Ðịa nay vui quá Ðịa đờn Tây-Thi.
Ðịa nay chẳng dám nói gì,
Ðịa chào nam nữ qui y Ðạo mầu.
Ðịa xin chúc lại một câu,
"Niết-Bàn tại thế, người hầu Thánh-Tiên".
Hò xang Tào-Tháo, Tôn-Quyền,
Cống xê xang xự đảo điên một hồi.
Triệu-Tử nợ nước đáp bồi,
Ðương-Dương Trường-Bản mật thôi cùng mình.
Sắc kia, Lữ, Ðỗng ghen tình,
Giết nhau cũng bởi đa tình, nghe ai!
Hò xang Lão Ðịa lên đài,
Vôn vôn tích cốc giã ai về về.
Trường-Tiếu-Tiên giáng. 

Thăng.

 Trở lại Mục Lục