ĐẠI ĐẠO TRUY NGUYÊN
&
PHU THÊ YẾU LUẬN
Cốt chỉ quyển sách nầy để trực luận về Đại Đạo Tam Kỳ
Tác giả giữ bản quyền
Saigon Février 1929
HUỆ CHƯƠNG
IN TẠI NHÀ IN VÕ VĂN VÂN
201-211 Kitchener 201-211
- SAIGON ---1953
Tựa

Tuy bề học thức của tôi vẫn còn hẹp-hòi, song hằng để tâm xem-xét trong điều hư-thiệt của đời, lại hằng thấy nhiều bậc văn-chương, thường muốn kích-bác một việc chi trong xã-hội, lại chẳng để lòng tìm biết cho tột lý; nên hễ luận đến thì không rõ ngọn nguồn. Thành ra, vì ghét lẫn một vài người trong đấy, mà làm chinh lòng cả công chúng; mà cũng làm hư danh của mình trong buổi kết cuộc. Nếu việc của người thành tựu sau xa, chừng ấy dầu có ăn-năn cũng đã muộn: Té ra, cái tư-tưởng chẳng hay của mình, luống để cho đoàn hậu-tấn luận biện đời đời kiếp kiếp.
Cũng như xưa kia, Đức Chúa Jésus-Christ giáng-sanh khai Thánh-Giáo; cả dân sự miền Âu bởi chẳng hiểu là điều yếu trọng về sau, cho đến nỗi một vị trong 12 Môn-đệ của Ngài là Juda, vì lòng tham-lam, đành bán Ngài cho quân Jiu-Giêu đem ra hạ-sát. Khi hối-ngộ, biết rằng sự lỗi, Juda tự xử lấy mình nhưng chưa đủ đền tội. Đến buổi chung cuộc thiên-hạ rõ thấu rằng Đạo chơn-chánh rồi, thì trong lòng hằng ghi nhớ Juda là kẻ bất lương; cho đến ngày nay đã gần hai ngàn năm, mà danh xấu vẫn còn lưu-truyền, hễ nhắc đến tên, thì người người phải nhăn mặt.
Lại buổi nọ, Đức Khổng-Phu-Tử, là một vị xuất Thánh miền Á-Đông, truyền bá Nho-Giáo, nhưng rủi gặp lối chưa phục đặng lòng của sanh-linh, làm cho Ngài chịu nhiều nơi khổ-tân; đến đâu cũng bị nhà Vua xô đuổi: Cả mấy nước Lỗ, Vệ, Trần tuyệt lương Ngài. Rốt việc rồi, dân-sanh thức giấc, biết đặng Tôn-chỉ Đạo của Ngài là cao thượng, thì Ngài cũng được hoan-nghinh. Bởi cớ mà ngày nay, hễ nhắc đến Ngài, thì thoạt nhớ lại mấy nước xưa không biết dụng hiền. Cái danh bất luật lại roi truyền chẳng dứt. Đó là hai sự tích, vẫn còn để treo gương cho các nhà văn-sĩ đời nay, soi lấy mà tự xét phận mình.
Ấy là việc xưa, còn hiện nay, có mấy cuốn sách tôi mới đọc rồi đây, thấy người đem một nền Đạo của nhà Nam, đã từ bốn ngàn năm nay mới hầu gặp đặng, mà luận việc tà chánh; nhưng không hiểu sao là tà, sao là chánh, thì điều sơ-sót ấy, nói chẳng cùng.
Vì vậy mà tôi để hết lòng nghiên-cứu, may thấu đặng chút ít căn-cội của Đại-Đạo Tam-Kỳ; nên đem nêu lên quyển sách nầy, hầu hiến cho chư quý-vị đọc giả tường lãm, rồi mặc tình luận-biện: chớ tôi vốn là người chẳng can dự với Tôn-giáo nào, nhưng vẫn biết thảy đều chơn-chánh. Nếu có việc chi lầm-lạc: ấy là xuất ư tâm chí riêng của một ít người tham danh, chác lợi đã gây ra, chớ Tôn-chỉ của Đạo nào cũng đều dạy những sự hiền-lành ngay thật cả.

Saigon, le 15 Septembre 1929
Huệ Chương
I. ĐẠI ĐẠO TRUY NGUYÊN

Tôi vẫn sanh trưởng nơi tỉnh thành Bến-Tre, biệt-danh là Huệ-Chương, theo ông thân tôi, vốn người giúp việc hảng buôn, chuyên nghề rèn tập theo lối văn-chương Âu, từ ấu chí trưởng.
Cả bạn tác, học một trường với tôi, thì tôi duy có gần-gũi M. Đức, vốn con nhà Cao-Quỳnh, lại là người có tâm chí rất hạp với tôi.
Từ buổi ra trường đến nay, tuy mỗi đứa vì ràng buộc theo phận sự gia-đình riêng, song cũng hằng tới lui thăm viếng, và lo-lắng cho nhau, chẳng khác tình ruột thịt.
Một ngày kia, tôi vẫn nghe thiên-hạ kích-bác về Đại-Đạo Tam-Kỳ, lại có tên ông thân, và chú ruột của ảnh, thì tôi lấy làm chưng hửng. Tuy là tôi hay đến nhà chơi với ảnh, thường cũng hay thấy mấy ông lớn hiệp nhau bàn luận việc Đạo; nhưng vì tánh tôi còn ham chơi, nên không hề để ý đến.
Nay nghe vậy, tôi lật-đật đến hỏi thăm ảnh cho rõ.
Vừa gặp nhau, tôi chưa đặng cạn hỏi, thì ảnh đã vổ vai tôi mà nói rằng: "Hơi nào mà anh nghe thiên-hạ! Họ có hiểu cái nguồn-cội của Đại-Đạo là nơi nào mà ra đâu; bị họ luống tưởng mấy ổng bày ra, mà gạt chúng. Anh nghĩ coi, như có gạt-gẫm, thì năm ba chục người, cũng còn có thể nói đến chuyện lầm-lạc, lẽ đâu trót triệu nhân-sanh như vậy, lại trong số triệu ấy, cũng hiếm người phẩm-vị cao,
trí-thức nhiều mà cũng mắc kế mấy ổng nữa sao!"
Để tôi thuật sơ đầu đuôi gốc ngọn lại cho anh nghe, rồi cứ suy nghĩ riêng lấy mà kiếm hiểu.
Anh em mình vẫn ý-kiến tương đồng, kết bạn với nhau trót mươi năm, tình như máu thịt, thường hay bàn luận; khi thì về học-thức, mà cũng có lối; nói đến tình đời, cho đến việc nhà của nhau, cũng đều thấu hết.
Anh dư biết tánh tình của tôi; tuy hay vui chơi, theo cuộc hí-trường, song cũng hằng để ý, kiếm cho hiểu biết luân-thường Đạo-lý. Tôi dòm quanh theo cô bác lối xóm-giềng, hằng thấy mỗi nhà đều chưng dọn bàn thờ; việc đẹp chăng, là tùy gia vô hữu, nhưng cũng có lập ra luôn, hoặc thờ ông bà, hay là cha mẹ. Về nhà, thấy ông thân tôi chẳng hề để ý đến đó, tôi hỏi ổng, ổng trả lời rằng:
"Thầy nay tuổi đã bốn mươi ngoài, cũng hằng tìm tòi cho biết những điều ấy, nhưng chưa hề thấy việc nào là ắt. Nếu sự chi mà thầy chưa rõ thấu, thì thà là đừng làm, còn hay hơn là bắt chước người mà không hiểu chi cả.
Thầy duy tưởng rằng, có một Đấng Tạo-Hóa Càn-Khôn, nhưng chẳng hề thấy hình ảnh đặng, thì cung kỉnh Ngài mà thôi. Còn những việc theo thế tình hoặc thờ cha kính mẹ, thì nơi lòng, dầu cho mất còn cũng vậy. Mỗi khi cúng cơm cho ông bà, là buộc ý thầy, làm theo cổ lệ, nếu không ngơ, lại buồn lòng. Còn bày biện bàn thờ như người, thì thầy nghĩ ra, một việc làm không ắt, thế cũng không tổn phí mà chi; miễn bổn phận người, làm sao cho khỏi trái lương tâm mình, là hơn hết".
Nghe ông thân tôi nói vậy, thì đã biết ông không tín-ngưỡng chi hết, nhưng ông cũng hằng giữ phận làm người, thì đã đành. Tôi lại cắc-cớ hỏi chú ruột tôi là ông Cao-Quỳnh-Cư, té ra hai ông như một. Thậm chí, đến đỗi tôi tức mình hỏi cô bác, những nhà có thờ phượng, thì không một ai, trả lời nào, cho vừa lổ tai tôi cả.
Một ngày kia, lối hạ tuần tháng Juillet 1925, nhằm đêm thứ sáu, tôi thấy nào là chú tư tôi, chú tám tôi, là M. Phạm-Công-Tắc, anh con nhà bác họ của tôi là M. Cao-Hoài-Sang, và vài người bạn nữa, đến mời ông thân tôi đi chơi. Tôi hỏi M. Sang cho biết mấy ổng đi đâu, thì ảnh lại nói với tôi rằng:
- Đi sai bàn.
- Sai bàn là chi?
- Là cầu các Linh-hồn, về nói chuyện chơi.
Nghe ảnh nói vậy, tôi lấy làm lạ, liền nom theo mấy ổng, đặng coi làm thế nào cho biết. Đoạn mấy ổng đều kêu xe kéo, vô nhà anh Cao-Hoài-Sang; rồi vầy nhau ngồi xung quanh một cái bàn tròn ba chưn, để nơi trước hàng ba, lại có chưng bình bông tươi tốt và đốt nhang, sắp đặt trên một cái bàn nhỏ, để dựa vách kế đó.
Tôi cũng ngồi kề bên ông thân tôi, chừng mấy ổng biểu: "Lẳng-lặng định thần" thì mỗi người đều để hai tay úp lên mặt bàn, tôi cứ việc làm theo.
Giây lâu, tôi thấy bàn nghiêng qua bên chú tư tôi, chú lại rầy chú tám Tắc, mà biểu đừng xô, cứ ngồi cho tịnh. Bàn lại ngã qua phía ông thân tôi, ông lại rầy nữa! Cách một chập,
coi bộ mấy ổng mỏi tay, nên thảy đều tan ra nghỉ hết.
Tôi có ý coi, trong mấy ổng chưa ai thạo việc ấy cả, vì thấy cải lẫy nhau hoài; kẻ nói vầy người luận khác, phân phân bất nhứt.
Khi ấy, anh Cao-Hoài-Sang nói với mấy ổng rằng: "Mình cứ tịnh tâm, ngồi yêm điềm, chừng nào có vong nhập, thì chắc là họ gõ chơn bàn, nghe cắc cắc chớ gì". Nghe đến đó, tôi có hơi dùn mình, vì tánh tôi nhát.
Đến khi vầy nhau lại nữa, chú tư tôi ngồi xếp bằng trên ghế, tỏ ý rằng sợ hồn ma vào gõ bàn, mà đụng cẳng, nên cả thảy đều rút chơn lên, kẻ chồm hổm, người xếp bằng, té ra mấy ổng cũng không dạn gì cho mấy!
Lúc ấy đã khuya, coi ông nào cũng mệt, phần thì muỗi chích chơn, hễ thò tay xuống gãi, thì lại động, làm cho cái bàn không yên tịnh, lớp lại buồn ngủ. Chú tư tôi lại suy nghĩ, rồi luận rằng: "Thế khi chúng ta để trong nhà,nên các hồn ma không dám vào.
Vậy khiêng bàn ra ngoài Trời trống trải, họa may họ mới nhập đặng". Đoạn mấy ổng hè-
huội áp nhau khiêng bàn ra sân. Ngồi một hồi lâu, bàn cũng cứ dở lên để xuống, làm cho mấy ổng rầy nhau, rồi cười hoài. Gặp lúc khuya, trời tối, muỗi lại cắn hơn nữa! Mấy ổng chịu đà hết nỗi, mới đành dẹp nghỉ, nhưng hẹn tối mai, sẽ hiệp nhau, làm cho hết ý. Ai nấy đều vui chịu, liền từ giã nhau ra về.
Qua đến mai, gặp nhằm thứ bảy, lối chín giờ, thảy đều tựu đến đủ mặt, cũng sửa soạn như bữa trước, rồi vầy nhau lại ngồi chung quanh, để tay úp trên mặt bàn. Nhưng nay, chú tư tôi lại dặn, phải sè bàn tay ra, hai ngón tay cái của mỗi người đều đâu đầu lại rồi ngón tay út, của người khác, làm cho có thế, các bàn tay liền nhau trọn cái vòng bàn. Mấy ổng nghe theo. Tịnh một chập, bàn dở lên cao, ngã vào góc tường. Rủi cho chú tám tôi ngồi phía trong kẹt, làm cho chú tưởng rằng anh Cao-Hoài-Sang, đương ngồi ngang mặt, cố ý muốn cợt chơi, nên chú la um-sùm rằng:
- Sang! Sang! Đừng phá mầy, chơi giống gì kỳ quá, mắc kẹt tao sao mậy! Rán ngồi tử-tế coi mà!
Ai nấy thấy vậy, đều cười rộ lên, mặt bàn nghiêng lại như cũ. Chú tư tôi liền năn-nỉ với mấy ổng, xin đừng giỡn, để ý rán làm cho tận-tâm coi thế nào cho biết. Khi nghe chú tư tôi nói dứt lời, thì thảy đều ngồi lẳng-lặng. Chú tư tôi thường hay có tánh giả ngộ, hễ nghe bàn cục-kịch, lại trợn mắt, ngó mấy ông kia. Tôi dòm thấy, ai ai cũng sợ cả, lại áp nhau cười rộ lên nữa! Làm như vậy, đã trót vài giờ, mà bàn cũng cứ dở lên để xuống mãi; mà hễ thấy vậy, thì mấy ổng lại rầy nhau, tưởng rằng tại người xô mà thôi.
Chừng tịnh lần nầy, cả thảy ngồi im điềm; thoạt nhiên, bàn dở lên gõ lia gõ lịa. Mấy ổng cũng cho là nội bọn phá, bèn hỏi thăm nhau. Ai nấy đều tỏ rằng, cả thảy đều để thật lòng mà thử cho hết sức, nên không xô đẩy chi; ấy là bàn diêu-động tự nhiên. Khi đó, người thì nói tê tay, kẻ lại nghe rần điển. Trong cơn mấy ổng hỏi nhau, bàn dứt gõ, nhưng cũng còn linh-chinh, dường như có sự sống vậy. Chừng nghi rằng có vong nhập, thảy đều kinh tâm; mấy ổng lụi-đụi, không biết phương chi mà thông-đồng với vong đặng.
Chú tư tôi liền dặn mấy ổng để như cũ, đừng ai lấy tay ra khỏi bàn, mà làm xao động, e vì vong xuất ngoại. Dứt lời, chú tư tôi lại nói với vong rằng:
- Xin khoan đi, để cho hỏi ít lời... Bây giờ chưa kiếm đặng thế nào cho hiểu nhau, thì duy cứ gõ hai, nghĩa là: Ừ chịu, có hoặc phải (Oui). Còn gõ một là: Không, hay là chẳng phải (Non).
Vong tiếp gõ hai: Tỏ rằng chịu theo lời dặn.
Đoạn chú tư tôi liền ngụ ý, rồi nói với vong như vầy: Ta hiểu theo đây, thì có thể nói chuyện với nhau tiện hơn. Nếu tôi hỏi chi, muốn trả lời lại, cứ tùy theo vần Alphabet quốc-ngữ mà gõ, mỗi chữ mỗi gõ, đến chữ nào dùng thì ngưng lại, nghĩa là lấy chữ chót; rồi bắt đầu trở lại mà nối chữ khác, xong rồi sẽ ráp lại mà đọc, giống như điệu dây thép vậy.
Vong liền gõ hai (Ừ chịu).
Hiểu nhau rồi, bàn gõ, chú tư tôi khởi đọc. Nhưng sự chi cũng vậy, lúc đầu sao cũng lộn-xộn năm bảy phen, đọc cho đến hết hai mươi mấy chữ vần, mà cũng còn gõ mãi. Tức mình, chú tư tôi cắt nghĩa lại một lần nữa. Thật lấy làm tội nghiệp cho vong quá, lại cũng thương cho mấy ổng, vì muốn thấu đáo, nên rán chịu khó đến cùng. May sao, lối mỏn hơi rồi, chú tư tôi đọc từ a, ă, â, b, c, d, đ ........... tới chữ L thì dứt gõ. Chú tư tôi dặn M. Cao-Hoài-Sang nhớ chữ ấy, đủ rồi sẽ chép lại. Đoạn bàn tiếp gõ quận thứ nhì. Chú tư tôi đọc a, ă, â, b, c, d, đ, ........... cho đến chữ Ư, bàn ngừng lại rồi cũng cứ nối điệu theo như trước, cho đến khi ráp đặng ba chữ: "Lượng-Cao-Quỳnh".
Khi tiếp đặng mấy chữ ấy rồi, thì mấy ổng hớn-hở vui cười. Dứt tiếng, chú tư tôi suy nghĩ rồi nói rằng: "Như phải là Cao-Quỳnh-Lượng, thì chắc biết mấy người ngồi đây; vậy cứ nói tên mỗi người coi có trúng chăng?"
Vừa dứt lời bàn gõ, chừng ráp nguyên chữ thì thành ra tên: Diêu, Cư, Tắc, Sang, Đức, Thân, Nguyên, thảy đều rộ cười lên, còn cái bàn thì hỏng lên một chưn, lắc qua, lắc lại, dường như cũng cười theo vậy.
Khi ấy, ông thân tôi tiếp hỏi Lượng rằng:
- Con có ở hầu ông Nội chăng?
- Có.
- Mời ông Nội đến đây, tiện không?
- Đặng.
Dứt lời, thì bàn dở lên rồi để xuống, không còn diêu-động như khi nãy nữa. Chú tám tôi nói rằng: "Bộ khi nó đi rồi". Nghe vậy, mấy ổng đều dang ra nghỉ hết. Chừng ấy, tôi có ý coi thì thấy ông nào ông nấy, cũng lấy làm lạ, mà nhứt là ông thân tôi, với chú tư tôi. Vì tự ấu chí trưởng, hai người không tin chi hết, cho kiếp chết là mất rồi, chẳng tin là có hồn. Nay lại thấy điều lạ kỳ như vậy, thì hai ổng ngồi nhìn nhau, tình hình như trời đã hé cửa cho mấy ổng dòm, thấy đặng sự bí-mật vậy.
Cách nửa giờ, vầy nhau ngồi, để tay lên, cũng tịnh như trước; kỳ nầy mấy ổng có màu kiêng dè, không dám cười giỡn nữa! Đoạn bàn gõ. Chú tư tôi tiếp đặng chữ, ráp lại như vầy: "Cao-Quỳnh-Tuân".
Ấy là tên của ông Nội tôi, cả thảy đều đứng dậy xá, rồi ngồi xuống. Ông thân tôi hỏi sơ ít điều đã qua rồi, kế chú tư tôi tiếp nói rằng: "Vì buổi thầy quá vãng, anh em con vẫn còn nhỏ dại, cho đến đỗi anh của con đã trộng, còn không nhớ đặng hình ảnh của thầy, huống chi là con còn nhỏ quá, duy buổi lớn khôn, nghe người truyền ngôn lại cái hạnh đức của thầy mà thôi. Nếu có thể tiện, xin thầy dùng dịp nầy, cho anh em con một bài thi tự thuật, hầu để roi truyền ngày sau, cho con cháu làm kỷ niệm". Ông nội tôi chịu cho, liền tiếp đánh ra bài thơ như vầy:

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa nên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương câu dặn gắn tâm đời.
Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Khi làm đến câu chuyện, thì cả thảy đều nao lòng, rưng rưng nước mắt; chừng qua câu kết, thì ông thân tôi, chú tư tôi, và chú tám Tắc, vùng khóc lớn lên một lượt; còn mấy ông kia với anh Cao-Hoài-Sang thấy vậy cũng mủi lòng khóc theo. Lúc đó, đâu cũng hai giờ khuya, lối xóm nghe khóc rùm lên, vài nhà lân cận đến dòm, thấy việc kỳ quái quá, thì họ đứng coi một hồi, nhưng không hiểu chi, họ đều lui về nhà ngủ hết.
Dứt bài rồi, thì ông nội tôi tiếp mấy chữ: "Thầy xin kiếu", đoạn bàn dở lên cao, rồi để xuống nhẹ hểu, không còn hơi động địa như khi trước nữa. Mấy ổng nói: "Đi rồi, đi rồi". Khi ấy mấy ổng xúm nhau đem vô đèn, chép mỗi người một bài, coi đi đọc lại rồi trầm-trồ khen mãi. Thấy vậy, tôi cũng để chút lòng tin, song chưa hiểu rõ cái huyền-bí ấy là thế nào. Còn ông thân tôi, chú tư tôi cùng mấy ổng vầy nhau, bàn luận truy kiếm cho biết vì đâu mà hóa ra chuyện lạ ấy. Tôi có ý coi, ông nào cũng ngơ-ngơ, ngáo-ngáo, chớ tìm không ra mối.
Ai nấy đều lui về nghỉ, duy có ông thân tôi chẳng chịu về nhà. Ổng theo chú tư tôi, mà thức luôn trót đêm, cứ đọc đi đọc lại bài thi ấy lại hoài, rồi bàn bàn luận luận, suốt luôn cả ngày chúa nhựt nữa! Ngồi đâu cũng nói có bao nhiêu đó mà thôi. Thậm chí cho đến buổi cơm mà ổng cũng ở luôn, mà dùng với chú tư tôi. Hai ông ngồi phân phân với nhau, cho đến mệt lũi, rồi nằm dài trên ván, mà cũng còn nói nói. Riết cho đến khi ngủ mòm, hồi nào tôi không hay, chừng ngó lại, thấy đồng hồ gần bốn giờ xế chiều,
tôi mới về nhà mà nghỉ.
Lật bật, kế bảy giờ tối, ông thân tôi về kêu tôi dậy, hối dọn cơm ăn, đặng hiệp nhau, đi vô anh Cao-Hoài-Sang nữa. Lần hồi, kẻ trước người sau, lối chín giờ rưởi, thảy đều đủ mặt; rồi thì cũng vầy nhau lại xung quanh cái bàn, đốt nhang lên. Đêm nay coi mòi mấy ổng sửa soạn đoan trang hơn bữa trước lắm.
Tôi cũng bước lại, ngồi kề bên ông thân tôi. Cách chẳng bao lâu, bàn dở lên đánh chữ, ráp vần lại như vầy: "Thác vì tình". Nghe đến đó, thảy đều rỡn ốc. Chú tư tôi bèn hỏi vong ấy tên chi? Đàn ông hay đàn bà? Trả lời rằng: "Đoàn-Ngọc-Quế, con gái".
Tên họ đều trùng, mà chữ lót cũng giống tên họ của một người bạn thiết với ông thân tôi, đương ngồi kề bên chú tám Tắc đó. Mấy ổng đều ngó M. Quế cười rộ lên.
Đoạn chú tư tôi nói với vong ấy, xin một bài thi tự thuật.

Vong chịu, liền khởi đánh ra như vầy:
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn-dập tương-tư oằn một gánh,
Nỗi-niềm tâm-sự tỏ cùng ai.
Ký tên: Đoàn-Ngọc-Quế

Xong bài thi rồi thì mấy ổng trầm trồ, người cho rằng, câu văn thanh tao; kẻ nói trạng luận đối rất chỉnh. Nhưng vì nghi cho nàng ấy dối tên, nên chú tư tôi để lời mời nàng, năng đến chuyện vãn chơi cho thường, hầu hỏi cho biết rõ căn cội, nàng khứng chịu. Từ ấy, mỗi đêm đều qui tựu nơi nhà anh Cao-Hoài-Sang. Trót tuần lễ, khi thì ông thân của anh Cao-Hoài-Sang về, lúc thì chú ách Đồng, là anh ruột của chú tám tôi, về mà chuyện vãn. Mấy ổng hỏi nhiều việc đã qua rồi, các vong cũng đều trả lời trúng hết, nhưng tôi coi ý mấy ổng chưa có lòng tin cho lắm. Cả thảy đều cho là một việc chơi cho tiêu-khiển, nên mỗi đêm mấy ổng đều có tựu nhau, vui chơi bao nhiêu đó thôi. Lâu ngày, vì thức quá mà mỏn lần hồi, rốt lại còn có sáu người là: ông thân tôi, chú tư Cư, chú tám Tắc, anh Cao-Hoài-Sang, Nguyễn-Tải-Thân và tôi mà thôi.
Một buổi tối thứ bảy kia, nhằm tối thượng tuần tháng Aout 1925, ba ông hiệp nhau chơi, còn ông thân tôi, vì mắc việc nên vắng mặt; còn tôi với em tôi, thì cứ theo chú tư tôi. Bữa ấy, có cô Đoàn-Ngọc-Quế về bàn, đàm luận một hồi, rồi ba ổng xin kết anh em với cô. Cô bằng lòng, bèn kỉnh:
Chú tư tôi là Trưởng-ca,
Chú tám Tắc Nhị-ca.
Anh Cao-Hoài-Sang, Tam-ca,
Phần cô, thì Tứ-muội.
Còn hai anh em tôi, cô kêu bằng em cả. Đoạn cùng nhau trò chuyện. Lần hồi, chú tư tôi vì nghi cô trá tên, nên năn-nỉ hỏi cô cho đến cùng. Cô liệu khó giấu, nên tỏ thiệt là: V.T.L.
Chú tôi hỏi thăm mồ mả, cô cũng chỉ rõ. Rạng ngày, ba ông dẫn nhau đi tìm đặng nhà mồ của cô, rất nên đẹp đẽ, gần nơi Phú-Thọ, rõ ràng có tên tuổi cô, đề trên mộ bia. Khi kiếm được rồi, mấy ổng mừng rỡ chẳng xiết, bèn đứng trước mộ, khấn vái với cô, xin theo về nhà ông thân tôi nói chuyện chơi, có ý thử coi ban ngày, chư vong có thế nhập bàn đặng chăng?
Khi ba vị về đến nhà lối 9 giờ ban mai, thuật chuyện tìm đặng mả của cô lại cho ông thân tôi hay, đoạn đem bàn ra mà cầu cô. Thật quả, có cô đến đàm luận, rồi nhìn cái mộ mà ba ông đã đến viếng, là nơi xác của cô an nghỉ đời-đời kiếp-kiếp.
Kể từ mấy ổng hiểu đặng chút ít trong việc mầu nhiệm của Trời Đất, lại có thế cầu chư vong trong buổi bạch nhựt, thì mấy ổng càng hứng chí hơn nữa. Ngày đêm không kể đến sự mệt nhọc, ông thân tôi, thì hiệp với anh Cao-Hoài-Sang, nơi nhà tôi mà chuyện
vãn với chư vong, còn chú tám với chú tư tôi, thì vầy nhau nơi nhà chú tôi, cũng trong một con đường Bourdais, hai cái nhà ở ngang, trịch nhau chừng vài căn phố.
Từ ấy mấy ông đã chia nhau hai bên, hằng ngày hằng đêm kiếm tìm về việc huyền-bí, mà học hỏi với nhiều vị khuất mặt. Cách ít lâu, có hai vị Tiên-Trưởng đến làm thi văn, bên chú tư tôi thì ông Thanh-Sơn, còn bên ông thân tôi, lại có ông Nhàn-Âm Đạo, cả hai nhà đều đặng mỗi bên, mười bài thi (Thập-thủ-liên-hườn) khác nhau.
Một đêm kia, nhằm lúc bốn ông hiệp lại, lập bàn hương-án, khẩn cầu Đức Tả-Quân. Người đã có lòng thành, nên Ngài cũng giáng vào, đề một bài thi, nhưng lâu ngày tôi đã quên phức.
Lại có đêm nọ, mấy ổng vầy lại, vừa ngồi vào bàn, thì có cô V.T.L. đến giáng, cô lại trình diện một người chị em theo với cô, xin vào ra mắt mấy ổng. Cô nói rằng, vị nầy thi-phú cũng hay lắm! Mấy ổng mừng rỡ, bèn mời tân khách giáng vào.
Đoạn người ấy tiếp vô xưng rằng:
- Em là Hớn-Liên-Bạch, xin hiến một bài thi, ra mắt mấy anh, song xin mấy anh chớ nệ chi về văn chương hay dở.Anh Cao-Hoài-Sang liền tiếp rằng:
- Tôi vừa nghe cô Vương nói rằng, thi văn của cô rất hay, vậy tôi xin ra đề.
(Ý M. Cao-Hoài-Sang chưa tin cho mấy, e vì mấy ông kia bịa đặt mà giả mạo gạt ảnh.)
Cô liền khứng chịu, anh Cao-Hoài-Sang ngồi suy nghĩ rồi ra đề: "Tiễn biệt tình lang".
Cô tiếp dở bàn gõ, không ngừng chút nào cả. Mấy ổng ráp lại bài thi như vầy:

Chia gương căn dặn buổi trường-đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn-mỏn,
Xa xui ai thấu nỗi đinh-ninh.
Dứt bài thi, mấy ổng rộ lên khen cô rằng: "Văn thiệt là quáng thế!"
Lại xin cô tiếp một bài nữa, lấy đề "Hoài-Lang" mà làm. Cô chẳng suy nghĩ chi, cứ đề một bài rằng:
Động-đình nhớ buổi tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ thần chạnh lúc vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận lương-nhân xin nhắn-nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

Thật là tuyệt bút! Mấy ổng khen ngợi chẳng cùng, nhờ nơi đây mà phục đặng lòng tín-ngưỡng của mấy ổng chút ít nữa.
Khi khác mấy ổng lại kiếm nhớ những bạn tác nào, lúc còn sanh tiền, biết làm thi mà mời về, đặng thử nữa! Đoạn nhớ đến M. Huỳnh-Thiên-Kiều, là người buổi sống giúp việc sở tuần thành, bổ vào dinh Đốc-lý Sàigòn, coi về sở Patentes. Người ấy, còn ai ở Sàigòn mà chẳng biết, khi ở thế có nhập vào Hội-Thi-Xã. Mấy ổng bèn vái tên họ của M. Huỳnh-Thiên-Kiều. Trong giây lát, nhập vào bàn đề thi rằng:

Nhắn-nhủ mấy anh một ít lời,
Làng mây hồn trẻ đã xa chơi.
Mẹ già nỗi hiếu chưa rồi đạo,
Vợ yếu niềm duyên chẳng trọn đời.
Chạnh nhớ quê xưa lòng xót-xáy,
Buồn trông cảnh cũ dạ bời-bời.
Ai về gởi lại tình sông núi,
Kiếp khác ân sinh sẽ đáp bồi.
Huỳnh-Thiên-Kiều tự Quí-Cao

Ngày kế đó, cũng vì M. Nguyễn-Trung-Hậu, nguyên là một người bạn trong Thi-Xã-Hội với M. Huỳnh-Thiên-Kiều vì thấy bài thi bữa trước, cũng có ý không tin, nên ngày sau M. Hậu làm một bài đem đến. Khi đem bài thi đến, vái rồi đốt, đoạn mấy ổng vầy nhau lại ngồi, cầu M. Huỳnh-Thiên-Kiều. Trong giây lát, M. Huỳnh-

Thiên-Kiều vào tiếp họa bài thi như vầy:
Một tiếng u-minh giống cửa không,
Phồn hoa vụt tỉnh giấc đương nồng.
Ngồi thuyền Bát-nhã qua tình biển,
Mượn nước nhành-dương rưới lửa lòng.
Cuộc thế lạnh-lùng lằn gió lọt,
Đường đời ngán-ngẫm bụi trần lồng.
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên Đạo,
Oan trái phủi rồi phép Phật thông.
Ký tên: Quí-Cao
Gặp lối mấy ông đương mê thi-văn, lại có người tuyệt-bút, đến giáng vào đề một bài:

Vịnh Xuân
Ngàn liễu khoe xuân cảnh rỡ màu,
Xuân nồng vườn ngự vẻ thanh tao.
Chào xuân ác lố trăm lằn rạng,
Ghẹo liễu trăng soi một sắc làu.
Thơ-thới cành hôm, hoa đọng ngọc,
Êm-đềm dạo tối, cỏ đeo châu.
Đượm bầu nhân sự xuân qua lại,
Khuất bóng xuân sang khách luống sầu.
Hớn-Liên-Bạch kỉnh hiến.

Hằng đêm, hằng có chư-vị đến, mấy ổng thử cũng hết sách, mà cũng nhờ vậy, mới phục đặng lòng của mỗi người. Như có một buổi, anh Cao-Hoài-Sang buồn, đề một bài thi Tự-thuật, có ý than thân trách phận, sao lăn-lóc với tình đời, tuy tuổi chưa bao nhiêu mà đã mòn-mỏi. Anh đem ra nhà cho ông thân tôi coi, và cũng muốn để cho mấy ổng họa lại chơi cho vui. Nói chuyện với nhau rồi lẩn-quẩn cũng cầu chư-vị nữa! Vào ngồi trong năm phút đồng hồ, thì có ông thân của ảnh, là bác Cao-Hoằng-Ân giáng đến. Thuở bác còn sanh tiền, làm việc Tòa-Án, lại cũng có đổi đi vùng miệt Tây-ninh, Bạc-liêu, và nhiều chỗ khác nữa. Rốt sau, lại về ở Sàigòn rồi mới quá vãng, tôi tưởng nhiều người biết bác lắm. Khi ấy, chú tư tôi thưa với bác rằng: Sẵn dịp anh về đây, nhằm lúc Sang làm một bài thi tự-thán, cậy mấy anh em tôi họa, vậy anh họa chơi luôn thể. Ông thân tôi lại nói, anh cứ việc đề thi, dạy nói thế nào, thì anh định lấy, nhưng tùy theo vận của Từ-Thứ, mà lâu nay làng thi chịu phục là: Voi, mòi, còi, roi, thoi mà làm. Dứt lời, bác Cao-Hoằng-Ân tiếp liền, chẳng đợi phút nào cả.

Bài thi như vầy:
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm rỡ,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruỗi đường hòe há nhọc roi.
Nín nẳm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn lòng chừng có lượng đôi thoi.
Vừa tiếp bài thi ấy, mấy ổng trầm trồ chưa hết, kế gặp vị Đại-Tiên nầy, giáng đề một bài:
Chiêu tập hồn thi bước Đạo điều,
Non xưa chớp cánh nhạn trông theo.
Trời thanh khách gắng lần qua suối,
Đêm rạng trăng soi lướt khỏi đèo.
Mây khỏa đảnh Tần màu gió cuộn,
Thuyền khơi sông Bích cánh buồm treo.
Giang-san một dãy nền chung dựng,
Biển cả chi nao ít mái chèo.
Nhàn-Âm-Đạo
Cách ít lâu, có cô Hớn-Liên-Bạch dẫn đến một vị xin vào ra mắt mấy ổng.
Gặp nhằm tiết thu, nên mấy ổng cậy cô đề một bài:
Bi Thu
Im-lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ-mệt vườn đào điểm sắc thu.
Gió dậy xao Trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruỗi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dặm vẻ làu.
Non nước đìu-hiu xuân vắng chúa,
Nhìn hoa cảnh úa giục cơn sầu.
Lục-Nương kỉnh hiến.
Dứt bài, cô lại tiếp một bài điệu Động-Đình như sau:
Đầm ấm cảnh Trời mai ác lố,
Thơ thới đưa thuyền khổ khách chèo;
Nhấp-nhô lượn sóng khỏa lèo,
Luồng đông gió tạt cánh bèo ngưng sông.
Một chiếc quạnh bóng hồng nháng ngọn,
Mây đoanh non tuyết đóng nhành thung;
Về Nam đổ cánh rừng tòng,
Ngút xem tủa áng cây đông khóa rèm.
Đường xúm-xít chị em ruỗi bước,
Dắt-dìu nhau kẻ trước người sau;
Tìm nơi hứng giọt mưa dâu,
Để cơn khao-khát khoe màu phù dung.
Đờn nhắn khách năm cung nhặt trỗi,
Vẹt mây đen gió thổi chiều hôm.
Quang-âm ngày tháng dập-dồn,
Ngừa khi trễ bước hoàng-hôn trở đường.
Đường muôn dặm khách đơn thân,
Mượn bóng trăng làu bước vẹn chân.
Khóa kín song thu trau hạnh đức,
Chờ khi Đạo trọn đến non thần.
Non thần tiếng hạc chầu vang đảnh,
Chờ rước người ngay chánh tìm đường;
Mơ-màng chưa tỉnh huỳnh-lương,
Sóng xao biển khổ nên thương khách trần.
Nghe qua bài văn Động-Đình nầy, mấy ổng khen tặng chẳng cùng.
Xong mấy bài đó, mấy vị khác tiếp vào, đề mấy bài Nho như vầy:
Mỹ-Ngọc! Nghe lão:
Hoành thượng đơn khai chí bách thiền,
Hựu tu chưởng hiệp khởi tranh liên.
Mật đài khánh nhựt khinh hành định,
Cửu tái quang minh đắc cọng niên.
Mật sự khá kiếm hiểu.
Liên-Huê-Tiên
Diệu thành tâm khởi đức khai truyền,
Đạo thức thời âm tận ký niên.
Thiên mạng lưu hành vô tự đoạt,
Tôn hồi cẩm vị khải huyền nhiên.
Tri thức.
Thăng
Phổ hóa hoài tâm hạ tác thành,
Hiền khai trực thượng độ nhơn sanh.
Bồ-đoàn linh diệu cơ huyền mạng,
Tác ái diệt tàng cẩm đắc ninh.
Thăng

Chư vị có ý muốn dạy mấy ổng, nhưng không hiểu chi hết, mấy ổng vầy nhau lại bàn như thầy bói, rồi dẹp lại đó, đợi!
Qua lối thượng tuần tháng tám, chú tư và chú tám tôi tiếp đặng mấy lời của cô Vương dạy về Diêu-Trì-Cung:
Trên có Cửu-Thiên Nương-Nương cai quản.
Dưới có chín vị Tiên-Cô.
Cô Vương đây đứng về Thất-Nương, cô Hớn-Liên-Bạch là Bát-Nương, còn bảy vị khác đều có nói tên cả.
Chú tư tôi, nghe đặng lời ấy rất mừng lòng, bèn xin cô chiếu cố đến mấy ổng, dạy cách nào cầu lịnh Kim-Mẫu đến đặng. Khi ấy, Thất-Nương bèn biểu mấy vị phải trai giái
ba ngày, và tìm cho đặng Ngọc-Cơ cầu lịnh Bà mới đặng. Mấy ổng không hiểu Ngọc-Cơ là chi, chú tư tôi xin cô chỉ dạy. Cô bèn vẽ hình Ngọc-Cơ, rồi giải nghĩa và dẫn rõ căn cội buổi xưa, lấy hình trạng của ngôi sao Bắc-Đẩu mà tạo thành, lại dạy cách phò Ngọc-Cơ cho mấy ổng, và biểu mấy ổng đặt mỗi người một bài thi dự bị. Đoạn chú tư, chú tám tôi và anh Cao-Hoài-Sang vưng lời trai giái ba ngày; và tìm mượn đặng Ngọc-Cơ y theo lời dạy.
Qua đến ngày thứ ba là buổi hẹn hò, lại nhằm tiết Trung-Thu, đúng đêm 14, rạng mặt rằm tháng tám. Ngoài trời thì trăng thanh gió mát; trong nhà chú tư tôi lại dọn dẹp trang hoàng, xem vào có vẻ tinh khiết lắm.
Đúng giờ Tý, thảy đều đủ mặt. Tôi thấy chú tư tôi đã sắp đặt dọn bàn dài, rải bông lá chung quanh, phía trong bàn ngay chính giữa, để một bộ đồ trà, còn chín vị Tiên-Cô mỗi người một cái tách, sắp vòng theo bàn, hàng giữa dọn những trái cây tươi tốt, ngó vào rất lịch, tựa hình như đãi tiệc, vì chung quanh có chín cái ghế mây. Cuộc cúng nầy mấy ổng gọi là: "Phó yến Diêu-Trì", đến ngày nay hãy còn noi dấu lễ kỷ-niệm ấy.
Đoạn chú tư tôi đốt hương đèn lên, cả thảy đều quì lạy khấn vái, rồi đem Ngọc-Cơ ra mà cầu. Thật quả có lịnh Cửu-Thiên Nương-Nương đến, và đủ chín vị Tiên-Cô, mỗi vị đều giáng cơ chào mừng mấy ổng. Khi ấy, Thất-Nương xin ba ổng đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của mình làm, đặng hiến lễ, còn lịnh Bà và Cửu Cô an vị mà nghe. Chừng nhập tiệc, Thất-Nương lại mời ba ổng ngồi chung vào cho vui. Cũng tội nghiệp cho mấy ổng, vì e thất lễ nên không dám. Rốt việc, ép uổng quá, mấy ổng liệu thế khó chối từ, mới đem ghế thêm, sắp sau lưng chín cái ghế nọ, ba ổng xá rồi ngồi xuống.
Tôi dòm thấy mấy ổng cũng bắt tức cười, nhưng không dám nhích mép,
cứ đứng khoanh tay hầu mà thôi.
Cách chừng nửa giờ, chú tư tôi lại tái cầu. Lịnh Nương-Nương và chín vị Tiên-Cô để lời cảm tạ chẳng cùng, lại hứa rằng: "Từ đây đã có Ngọc-Cơ rồi, thì tiện cho Diêu-Trì-Cung Cửu Cô đến mà dạy việc". Đêm ấy,
mấy ổng thức cho đến 3 giờ khuya mới nghỉ.
Kể từ ngày ấy, bên kia thì chú tư tôi hiệp với chú tám tôi, thường hay cầu Ngọc-Cơ mà học hỏi. Còn bên nây, ông thân tôi với anh Cao-Hoài-Sang, thì vẫn còn sai bàn. Cả hai bên hằng đêm, đều có chư Tiên đến dạy văn chương thi phú nhiều điều, như là Động-Đình, Liên-Phong, tôi chưa từng thấy, mà nhứt là chú tư tôi, hay có tánh lục lạo, hỏi đon nhiều điển-tích cao xa, và nhiều điều hóa-học bí mật, theo ý tôi tưởng, nếu không phải là bậc Tiên-Thánh thì dầu bậc cao học nào, trong thế gian nầy,
cũng chưa hề thấu đặng.
Lần hồi khi chú tư tôi khỏe thì phò Ngọc-Cơ, lúc mệt lại sai bàn. Một đêm kia, thoạt có một vị Đại Tiên đến, không xưng tên chi, cứ lấy ba chữ đầu "A, Ă, Â" làm hiệu, dìu-dẫn. Ban đầu thì dạy thi phú, điển tích, rồi lần qua việc Đạo, ấy là bên chú tư tôi. Còn bên nây, ông thân tôi với anh Cao-Hoài-Sang, một ngày nọ lại tiếp một vị Tiên-Cô nơi Diêu-Trì-Cung, giáng vào bàn xưng là

"Thanh-Tâm Tài-Nữ" cho một bài văn điệu "Liên-Phong" như vầy:
Mượn nguồn đạo-đức khỏa màu trần,
Luyến thế ngày qua khó kịp xuân.
Bến khổ trương buồm thuyền đợi khách,
Non tiên trở cánh hạc chờ xuân.
Xuân mờ mệt bao nhiêu cảnh ủ,
Cụm rừng tòng lá xủ, tranh sầu.
Biết bao mấy nỗi tang dâu,
Bóng trăng kia đã đứng đầu tuổi xanh.
Xanh vàng ngọn cỏ trải mồ oan,
Oan trái trả vay khách nhộn-nhàng.
Nhàn cảnh mấy ai tìm đến chốn,
Chốn bi-ai luống nhọc-nhằn than.
Than rằng: Cõi phù sanh nháy mắt,
Trăm năm đâu biết chắc rủi may.
Đua tranh sánh của so tài,
Của tài phủi sạch đường dài thoát qua.
Gắng lo xa .......

Tôi thấy mấy ổng như vậy, tôi bắt chước. Một bữa chúa nhựt kia, ông thân tôi đi khỏi, tôi với em tôi là Nguyễn-Tải-Thân khiêng bàn ra, lối chín giờ ban mai, hai đứa ngồi, cũng úp bốn bàn tay lên, tịnh trí, giây lâu có em tôi nhập về bàn xưng là:
"Cao-Quỳnh-Lượng".
Anh em mừng rỡ nhau, nói nói cười cười, tôi ngụ ý muốn thử coi chơn giả thế nào, tuy tôi đã theo mấy ổng lâu rồi, nhưng đức tin chưa trọn; bèn nói với em tôi rằng: "Thầy và chú tư mình, khi ông nội sanh ra, đều có đặt hiệu Mỹ-Ngọc, Bội-Ngọc là vì nội biết chữ Nho. Tới phiên thầy mình sanh ra, phần thì thầy học tinh những chữ Tây không, làm cho cả hai đứa không có chi hết (dốt quá). Em có thế nào, kiếm cho qua một danh-hiệu chăng?"
Em tôi liền dở bàn gõ, tôi tiếp sấp hai chữ: "Ngươn-Ngọc". Tôi lại cậy em tôi cắt nghĩa cho tôi rõ, thoảng như có người hỏi đến, mà tôi nói cho thông (cũng sợ người ta chê dốt nữa!). Em tôi liền giải rằng:
"Đời nhà Ngươn có báu vô giá trị.
"Điển-tự: Vua Ngươn khải ca nhiều trận, chư Hầu khiếp vía, Bắc-vương kiên oai, cống sứ cho Trung-Quốc một hột ngọc-điệp, trong đời ít có. Khi đem phơi ngọc ấy ngoài nắng, tất nhiên chiếu nhiều màu, thiên ám địa hôn; người khát nước, ngậm vào miệng, dường như ngậm búng nước lã, mà hết khát. Còn nhiều điều quí nữa, song kể không hết. Bởi cớ đó, nên có câu: "Ngươn-Chiêu-Đế hữu bửu ngọc, nay trích trong câu văn ấy, mà lấy hiệu Ngươn-Ngọc".
Đặng cái hiệu và lời giải ấy, khi ông thân tôi về, tôi thuật lại cho ổng nghe. Ổng cắt nghĩa rành lại, tôi mới hiểu rõ rằng, cả dòng họ Cao-Quỳnh, danh-hiệu đều do nơi bộ Ngọc; chừng ấy, tôi mới có chút đức tin, là vì nơi đó. Lại cũng vì những thi,sau nữa phú, lối, . Tôi còn nhớ một ít bài, theo điệu văn Liên-Phong, ông thân tôi với anh Cao-Hoài-Sang, tiếp của chư Tiên như vầy:

Rảnh nợ thế rừng thung vui thú,
Chiều hứng nghe vượn hú chim chiền.
Một ngày thong-thả là Tiên,
Suối trong rửa sạch não phiền trần gian.
Vòng cương-tỏa buộc ràng danh-lợi,
Chốn hí-trường lui tới lăng-xăng.
Phép quan luật nước thúc dằn,
Đỉnh chung rốt cuộc mơ-màng chiêm bao.
Đâu là thấp đâu cao phẩm thế,
Nhục vinh kia ai để trọn đời.
Cõi trần kiếp sống mấy hơi,
Phủi tay chút đã châu rơi ngọc trầm.
Hỡi ai là khách tri-âm ....
H.M.
Liệu mà day trở bước thang xuân,
Một dặm đường qua Đạo một gần.
Sóng dậy tang thương hồng chích cánh,
Trời điều thưởng phạt họa đồng cân.
Cân thiêng-liêng chất đồng tội phước,
Gặp thời tua vẹn đước trọng nhân.
Dịp may dễ có mấy lần,
Dò đường đến chốn non Thần mới hay.
Hay biết Đời sao, Đạo lại sao?
Hay gần cửa Thánh bước lần vào.
Hay tìm nẻo chánh, tà xa lánh,
Hay tập thanh-cao, chí mới cao.
Cao khôn vói, thấp nào để bước,
Khó mà lần đến được mới mầu.
Chỉ mành rối khá lo âu,
Liệu chơn thoát khỏi vực sâu sau nầy.
T.T.T.N. hiến.
Nhàn du bạch dạ tuyến phong đình,
Âm tảng diệt kỳ chiếu đẩu tinh.
Chơn tịch quyền khai thiên vị đắc,
Nhơn bang hữu cọng liệt trân đình.
Rèm gió đêm tràng bóng rạng thinh,
Nghêu-ngao non Túy thú riêng mình.
Thu về hứng cảnh đôi bầu cúc,
Hạ đến vui sen mấy tiệc quỳnh.
Nhàn dạo vẩn-vơ theo Nhựt-Nguyệt,
Rảnh ngồi chẫm-rãi tụng Huỳnh-Đình.
Tranh đua giũ sạch lằn phi-thị,
Gặp buổi giang-hồ với chúng-sinh.
N.A.Đ.

Một bài văn của Quan-Thánh Đế-Quân cho một người Đạo-hữu vì ít biết tiếng Việt-nam, nên xin Ngài cho chữ Langsa:

L'homme a ses maux, le roseau a ses plaintes,
De ta destinée a pris soin le Créateur,
En te préservant de la vie toutes contraintes,
En semant à tes pas, espoir et non malheur,
A l'horizon loitain, déjà l'astre du jour,
Commence à décliner, ne perds pas de temps,
Pour qu'à ce séjour si beureux sois de retour.
Purgatoire accompli et esprit sans tourment,
Prôlant souventes fois les sombres nuages,
A perdre ton éclat, ton étoile est prête,
Mais une main divine à ton avantage,
D'un geste enchanteur dissipe la tempête.
Pour des entreprises lointaines, tu n'es pas fait,
Restes à ton sillon, ton compte est arrêté.
Le bonheur bien concu n'est-il pas le plus vrai?
Réserve ces faveurs à ta postérité.
Profite de ton présent, fais ta vie à venir,
Répare tes erreurs passées, sois bon père.
Marche vers le chemin de Dieu sans ralentir,
La vie a des ailes, elle n'est qu'éphémère.
Tâche de me conprendre.
Thăng.

Thuật đến đây, M. Đức nói rằng: Còn nhiều lắm, nhưng tôi không nhớ hết.
Còn bên chú tư tôi, khi vì Đại-Tiên hiệu A, Ă, Â giáng mà dạy Đạo, một ít lâu, bữa nọ, Ngài nói với mấy ổng rằng: Nếu muốn cho Ngài, để tận-tâm truyền đạo-lý, thì thảy đều phải kỉnh Ngài làm "Thầy", mới tiện bề đối-đãi nhau.
Chú tư tôi nghe vậy, thì lại càng mừng lắm, liền vưng chịu mà thọ giáo với Ngài. Nên từ đây, hễ Ngài có giáng cơ thì cứ xưng là "Thầy", rồi chào lại "Các con" mà thôi.
Đêm kia, nhằm 24 Décembre 1925, mấy ổng cũng hiệp nhau lại, cầu Ngài mà học Đạo, nhưng Ngài không đến. Một chập lâu, Thất-Nương giáng vào nói rằng: "Rất mừng vui". Mấy ổng không hiểu chi cả, bèn tiếp hỏi Cô: "Mừng việc chi?"
Cô trả lời rằng: "Đêm nay là đêm kỷ-niệm của Thầy giáng sanh, trong hai ngàn năm trước, mà khai Thánh-Giáo nơi miền Thái-Tây; nên giờ nầy, Thầy đương hội chư Phật, Tiên, Thánh, Thần dự lễ, mà không đến đặng cùng mấy anh. Vậy mấy anh nên cầu nguyện cho cả bá tánh, trong đêm lành nầy, rồi nghỉ. Bữa khác, Thầy sẽ đến dạy việc cần yếu".
Nghe Thất-Nương nói đến đó, thì hồn vía của mấy ổng đã bay bổng lên mây cả. Nửa mầng, nửa sợ, mầng là mầng vì đặng Chúa Thánh dạy khuyên, còn sợ là sợ nỗi bấy lâu, vì không biết Ngài, mà e lúc trước có nhiều khi thất lễ. Xong việc mấy ổng tan ra, bàn bàn tính tính cho đến canh khuya mới lui nhau về nghỉ.
Qua đêm sau, mấy ổng hiệp lại, lập hương-án (bữa nay áp quỳ lại thảy thảy) cầu Ngài đến. Ngài giáng vào cơ mà chỉ-dẫn:
"Từ buổi Hồng Mông, nhứt khí Hư-vô phân Lưỡng-Nghi, sanh Tứ-Tượng, chia Bát-Quái, rồi mới biến hóa Nhựt, Nguyệt, Tinh-tú và 72 Địa-cầu, mà tạo thành Càn-Khôn Thế-Giái".
Ngài lại giải rằng, lúc khí Hư-vô sanh Lưỡng-Nghi:
"Dương-khí thăng lên, biến ra Ngài; Âm-khí hạ xuống, biến ra Kim-Mẫu Nương-Nương".
Nghe đến đó, mấy ổng mới biết Đấng ấy là "Huyền-Khung Cao-Thượng-Đế", đã tá phàm gian nhiều khi rồi, mà dìu Đạo nơi Á-Đông, lại giáng-sanh khai Thánh-Giáo miền Thái-Tây nữa. Nay vì đã rốt cuộc tuần huờn, trong cõi Dinh-hoàng, thì giờ đã cùng tận lối Hạ-Ngươn nầy, nên Ngài đến hoằng-khai Đại-Đạo, chuyển các Tôn-Giáo lại, mà dìu-dẫn lần chót. Ấy cũng bởi Ngài thấy cả sanh-linh, đã luống theo thế-tình, mà quên phức nguồn cội.
Trước mặt ba vị:
Cao-Quỳnh-Cư,
Phạm-Công-Tắc,
Cao-Hoài-Sang.
Ngài hỏi rằng: "Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng?"
Mấy ổng bạch rằng: "Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo-lý chi, duy nhờ Đức Chí-Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết, chưa đặng trong muôn một, e cho chẳng xứng đáng, mà lãnh trách-nhậm lớn lao ấy".
Ngài nói rằng: "Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi".
Mấy ổng vưng chịu, và xin Ngài chỉ bảo cách thức, đặng thờ Ngài. Ngài lại dạy mấy ổng phải đến ông Phủ Chiêu, là người có thờ Ngài đã lâu rồi; lại dặn mấy ổng, chừng nào đi phải đem theo Ngọc-Cơ, đặng Ngài giáng, mà chỉ dạy thêm trong cách thờ phượng.
Mấy vị vưng mạng lịnh, tìm đến hiệp với ông Phủ Chiêu. Nhưng nghe rằng, ít tháng sau, vì không khứng nạp dụng những Đạo-hữu tới lui rần-rộ, trái tôn-chỉ Đạo của ông, là phải tịnh-dưỡng mà thôi, nên ông Phủ Chiêu thối bước từ buổi ấy.
Lúc-thúc đã gần cuối năm, Đức Chí-Tôn lại dạy ba vị, phải ăn chay trước ba ngày, đặng chí đêm 30 tháng Chạp năm nọ là Ất-Sửu, đợi đúng giờ Tý, là đầu ngày của năm Bính-Dần, mỗi người thắp ba cây nhang, ra quì nơi ngoài Trời, thành tâm khấn vái, vọng thiên cầu Đạo, và thề rằng: "Nếu chẳng tận-tâm lo vun đấp nền Đạo, thì Ngũ-Lôi tru diệt". Mấy ổng đều vưng chịu, rồi cả thảy đều thi-hành theo lời dạy.
Khi mấy ổng khấn vái xong rồi, thì vào nhà phò loan cầu Ngài, hầu coi có điều chi dạy bảo chăng?
Đức Chí-Tôn giáng dạy như vầy:
Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo Thiên lập Địa, Thầy sanh loài người ra, nhằm ngày Dần "Nhân sanh ư Dần". Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, còn Ngài thì Tá-danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
Rồi Ngài giải rõ rằng: Trong danh-hiệu của Ngài, gồm đủ Tam-Giáo: Nho, Đạo, Thích. Nên Đại-Đạo Tam-Kỳ khai nhằm giờ Tý, ngày mồng một, năm Bính-Dần là do nơi đó.
Vài ngày sau, Đức Chí-Tôn mới sai chú tư và chú tám tôi vô Chợ-lớn, cũng dạy đem Ngọc-Cơ theo, rồi Ngài giáng mà độ dẫn ông Lê-Văn-Trung, là cựu Hội-Đồng Thượng-Nghị-Viện, rồi lần lần dìu tới mấy vị khác nữa.
Cách ít lâu, tôi thấy chú tư và chú tám tôi, nhờ Cơ-bút mà biết nhiều việc cao xa, lại vưng mạng lịnh gầy ra mối Đại-Đạo Tam-Kỳ, còn ông thân tôi và anh Cao-Hoài-Sang cũng tiếp theo nghề Đồng-Tử, mà điều-dẫn chúng sanh, trót triệu người nhập-môn cầu Đạo. Đức Chí-Tôn lại định cho chú tư tôi phải xin thôi làm việc; còn chú tám tôi thì xin nghỉ đở ít lâu. Cả hai người về trí nơi hướng Đông miệt Tây-Ninh, mà lo vun đắp nền Thánh-Giáo. Còn phần ông thân tôi và anh Cao-Hoài-Sang thì về miền Tây. Lại có một cặp loan khác nữa là M. Nguyễn-Trung-Hậu và M. Trương-Hữu-Đức, lo việc phổ-độ miệt Trung-ương.
M. Đức thuật đến đây thì tôi liền tiếp hỏi ảnh rằng:
- Nếu vậy thì Đại-Đạo Tam-Kỳ khai ra, là nhờ nơi Cơ-bút, chớ không phải bắt chước ai, theo như lời truyền ngôn của những người công kích Đạo đó sao?
- Không phải đâu! Nguồn cội của Đại-Đạo, do nơi Cơ-bút của mấy ổng mà ra. Thậm chí, cho đến kiểu vỡ áo mão, thước tấc và màu áo của các Chức-sắc mặc, nào là khăn mấy lớp, áo mấy dải, thì cũng tùy Cơ-bút mà thôi, chớ nào ai hiểu biết đặng. Nhưng người muốn kích-bác, trước khi luận việc chi, họ chẳng chịu để tai mắt, xa nghe cạn thấy, lại cũng vì lòng ố Đạo, nên hễ họ vừa lóng lời sao khẩu, thì vội bình-phẩm liền. Sơ tâm cho đến thế, mà họ vẫn cứ tưởng mình là cao kiến hơn cả triệu sanh chúng; vậy sao gọi bực lãm-thức tình đời.
Như lúc sau, có mấy vị trong Bát Tiên, đến dìu-dắt mấy ổng, có để những lời vàng ngọc nầy, anh nghe thử coi thể nào, rồi sẽ luận sự chơn giả:

Đại hỉ chư Đạo-hữu
Trời đất riêng tay giữ một bầu,
Ngàn mây dậm gió gót chơn thâu.
Rừng tòng thong-thả nhàn ra dạo,
Đền ngọc thung-dung rảnh đến chầu.
Thoát tục sớm dìu nên bảy bạn,
Dẫn phàm nay rảo khắp năm châu.
Thế trần mừng gặp Tam-Kỳ độ,
Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.
Lý-Ngưng-Dương

Chư Đạo-hữu may mắn thay, gặp đường Chánh-giáo, chớ dần-dà, trễ công thiếu quả, mà chẳng đến thang Thiêng-liêng kịp thì hội vị. Lão mong ngày Đạo khải hoàn, chư Đạo-hữu nên gắng sức. Đường cũng chẳng bao xa, miễn hiệp đồng nhứt tâm vì sanh chúng, sau còn ngày gặp-gỡ. Thăng

Rảo khắp non sông dậm trải qua,
Bì gương nhựt nguyệt tác không già.
Biển trần nay gặp kỳ dìu chúng,
Muôn dặm đèn soi đã có ta.
Hớn-Chung-Ly

Chư Đạo-hữu, Đức Chí-Tôn dìu bước, cả Tiên-Phật dẫn đàng, há chẳng sớm lánh phồn hoa, đặng dồi-dào gương độ chúng. Huống chi, chư Đạo-hữu đã có quả nơi mình, lại chẳng vì mạng lịnh Đức Từ-Bi, mà chịu ít lâu khổ hạnh, hầu mong buổi đoạt phẩm-vị Thiêng-liêng sao?
Ước mong ngày hội ngộ, trông mong buổi tạc thù, rượu Thánh ra non dòm thế, cờ Thần dựa đảnh luận đời.
May thay! Vui thay! Chư Đạo-hữu nên gắng sức! Thăng

Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong ao,
Đền ngọc từng khi để bước vào.
Rảnh hứng trăm hoa khoe Đảnh-Ngự,
Nhàn vầy mấy bạn dự Bàn-Đào.
Độ đời rảo gót non sông lướt,
Cứu thế dìu nhân đạo-đức trau.
Chờ buổi tuần huờn Thiên Địa trở,
Nương gươm Thần huệ một vừng cao.
Lữ-Động-Tân

Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp kỳ phổ-độ, khá biết cải thế thì. Đạo khả trọng, đức năng trau.
Đời dời đổi, Đạo chờ người. Khách tục nương thuyền độ, non Tiên tiếng khánh đưa,
gắng nhọc thế lọc-lừa, tìm đường ngay thẳng-rẳng. Nguồn rửa bợn nhiều đường cay đắng, bước nâu sòng dặm lắm gay go. Liệu sao khỏi trễ con đò, mới thoát vòng khổ hải.
Gắng sức vì sanh mạng, lao tâm chớ sợ bởi căn xưa. Đường quanh co,
bước khá ngừa; nẻo hiểm trở,
chơn nên lánh.Hậu tái ngộ. Thăng

Từng vào non Thánh lại đền vàng,
Mãn quả sớm nhờ sắc ngọc ban.
Lần hạc tu tâm thìn nét Đạo,
Biển trần độ chúng vững con thoàn.
Cuộc cờ chung hứng nơi rừng thắm,
Bầu rượu riêng vui với cột tàng.
Gặp lúc dìu đời qua bến tục,
Để công phải nhọc đến phàm gian.
Lâm-Thể-Hòa
Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp lối quanh co, khá biết ngừa vực thẳm,
gắng sức cho tròn trách-nhậm lớn lao của Đấng Chí-Tôn phú thác.
Chư Đạo-hữu khá biết. Thăng
Trương kỳ bạch động mộ Tiên gia,
Quả diệu thâu trì tác trí kha.
Lão dược độ sanh tiên tự khởi,
Hiến trần tu thức trực ninh tà.
Ách nước nạn dân, số Trời đọa thế.

Vòng vay trả, mối buộc ràng; nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi vì đâu nông-nỗi?
Đạo Trời gỡ nạn, chuông Thánh truy hồn, bến khổ vớt khách chìm, non Thần chờ kẻ lạc; mà cũng còn khư khư nắm chắc miếng đỉnh chung, cấp-củm giữ đầy lòng nhơ bợn. Đạo, Đời đều chẳng trọn, phương chi tìm chốn thoát lao lung. Ngảnh lại cuộc giả của trò đời, mà thương đau cho trẻ dại. Lần-lần lựa-lựa, ngẩn-ngẩn ngơ-ngơ, đứa trí gạt phường ngu, lũ khôn ăn đám dại. Cười .... Thăng
*******
Ấy là những lời khuyến Đạo của năm vị Đại-Tiên, làm cho mấy ổng thêm lòng tín-ngưỡng, nên để hết sức chung lo, gánh vác nền Đạo. Lần hồi gầy dựng đặng vững-vàng, phục tâm đặng nhiều trang có trí-thức rồi, thì chia nhau kẻ giúp việc trong, người lo bề ngoài, mà làm cho đồ sộ thêm nữa.
Lật-bật đã vài năm, tôi mảng lo làm việc, sớm đi tối về, thường thấy ông thân, và bà thân tôi đi phổ-độ hoài, e khi già yếu mỏi mệt; nên tôi mới khuyên lơn ổng bả ở nhà nghỉ, hầu dưỡng tinh-thần. Ổng lại rầy, và cắt nghĩa cho tôi rõ chút ít về việc Đạo. Ổng nói với tôi rằng: "Cốt chỉ họ Cao-Quỳnh ta đây, tuy là lẫn-lộn nhiều ít nơi thế mặc dầu, chớ vẫn là người, phải hiến-thân cho Đại-Đạo, dầu cho con ngày sau cũng vậy, con không thấy chú tư con sao? Nay đã giải đường hoạn lộ, đem mảnh hình hài vun đấp nền Đạo, đã lập thành một Tòa Thánh-Tổ; nào là trẫy gốc ven đường, cất nhà ngang dãy dọc, nơi một miếng rừng 150 mẫu, trước kia cây cối phủ che, mà nay đã gần thành khoảnh. Lập nên công lớn với Đạo, mà cũng bổ ích cho Đời nữa! Bây giờ, phận thầy vì mắc ràng buộc thế sự, nên công-quả chưa được toại lòng, thế thì thầy có khứng, nằm ngồi nơi nhà, ăn no ngủ kỹ, mà ngắm thế sự cho đành đâu. Khi nào con xin nghỉ làm việc ít ngày, thầy sẽ dắt con đến đó, coicho thấy những công việc đồ-sộ của chú tư con làm,
rồi con mới biết cho thầy, công linh như vậy là có chi đâu!".
Nghe ông thân tôi tỏ mấy điều, và cắt nghĩa tình-hình đời cho tôi hiểu, làm cho tôi hết dám ngăn cản ổng nữa! Từ đó đến nay, tôi dòm coi ý ổng, đã chán-ngán tình đời,
ổng với bả, đều ăn trường chay, còn việc nhà ít hay quảng tới.
Đó là điều tôi thuật sơ cho nghe mà thôi, còn việc cao xa về Thánh-giáo, tôi không nhớ mà nói cho hết.
Nghe dứt câu chuyện của ảnh, dường như tôi thức tỉnh chiêm bao, mới biết là việc của Trời Đất làm ra, chớ sức người đâu có đặng. Rất đỗi là các Thánh xưa khai Đạo, tôi hằng coi sách có lần nào thạnh-hành như buổi nầy đâu. Tuy nghe ảnh nói vậy, song còn muốn thấy hiện-diện, cho biết rõ nguồn cội thêm. Tôi cậy ảnh, nếu chừng nào ông thân ảnh đi, thì xin ảnh dìu-dẫn tôi theo coi thử.
Cách ít lâu, gặp lễ nghỉ đặng ba ngày, ảnh cho tôi hay, rồi đề-huề ra đi. Khi đến Tòa-Thánh, M. Đức dắt tôi vào lạy nơi đại điện, đoạn ảnh chỉ mấy cốt thờ nơi Bát-Quái-Đài, mà cắt nghĩa cho tôi nghe: Phía trên có dựng một trái Càn-Khôn có vẽ Thiên-Nhãn, và đầy những Tinh-tú, ấy là thờ Đấng Tạo-Hóa, chủ quyền chấp-chưởng cả Càn-Khôn Thế-Giới, vì Ngài là vô vi, không có hình ảnh nên không lên cốt. Duy có Thiên-Nhãn, tựa ra mà chỉ rằng, Ngài soi khắp mọi nơi, dầu cho đôi vầng Nhật-Nguyệt và các vì Tinh-tú, cho đến các Phật, Tiên, Thánh, Thần cũng trong tay Ngài mà thôi. Tôi lại thấy trong lòng trái Càn-Khôn, có thắp một ngọn đèn, tôi liền hỏi ảnh. Anh cắt nghĩa rằng: "Ấy là ánh sáng của Đạo đương khai, cũng nên gọi là Hồn của cả sanh linh, nơi trái cầu sáu mươi tám nầy, đứng trong hàng Thất-thập-nhị địa".
Kế đó, ảnh chỉ các cốt như là:
Đức Thích-Ca, khai đạo Phật,
Đức Lão-Tử, khai đạo Tiên,
Đức Chúa Jésus Christ, khai đạo Thánh,
Đức Khương-Thái-Công, khai Bảng phong Thần,
Đức Khổng-Phu-Tử, khai đạo Nho.
Lại chỉ cốt Đức Phật Quan-Âm Bồ-Tát, Đức Lý-Thái-Bạch và Quan-Thánh Đế-Quân mà nói rằng: "Ấy là ba vị Phật, Tiên, Thánh thay mặt cho Tam-Giáo, dìu Đạo kỳ Hạ-ngươn nầy, giúp sức cho Đức Cao-Đài Thượng-Đế, tức là Giáo-Chủ, đứng chủ quyền nền Đại-Đạo Tam-Kỳ. Ngài đủ quyền thiêng-liêng mầu nhiệm, mà qui nguyên các Tôn-Giáo lại hiệp nhứt mới đặng".
Anh lại chỉ phía dưới hết, có bảy cái ngai, là ngôi vị thiêng-liêng của Đức Giáo-Tông,
ba vị Chưởng-Pháp và ba vị Đầu-Sư, thuộc về Nhơn-Đạo. Nhưng sắp ở đó,
chớ không ai ngồi, duy có đặng toạ-vị trong mỗi khi Đại-hội Chức-sắc mà thôi.
M. Đức nói rằng: Trong đền thờ, các Đấng ấy là người đã có công khai sáng Đạo,
từ buổi tạo Thiên lập Địa đến giờ, hiệp lại mới gọi:
Tam-Giáo là:
Thích
Đạo
Nho
Mà cũng gồm về:
Ngũ-Chi Đại-Đạo là:
Phật-Đạo,
Tiên-Đạo,
Thánh-Đạo,
Thần-Đạo,
Nhơn-Đạo.
Viếng nơi Bát-Quái-Đài (đại-điện) rồi ảnh dắt tôi trở ra khoảng giữa rộng dài, mà cắt nghĩa với tôi rằng: Đây gọi là Cửu-Trùng-Đài, nơi của Ba-ngàn-một-trăm-mười-hai Chức-sắc. Đẳng cấp như vầy:
1
vị Giáo-Tông
(Pape)
3
vị Đầu-Sư
(Cardinaux)
36
vị Phối-Sư
(Archevêques) nhưng có 3 vị Chánh đặng thay mặt cho 3 Đầu-Sư, còn 33 vị kia là Phó.
72
vị Giáo-Sư
(Evêques)
3000
vị Giáo-Hữu
(Prêtre)
Cọng là
3112 vị.
Nên Đức Cao-Đài Thượng-Đế gọi là:
Nhứt
Tam
Tam-thập-lục
Thất-thập-nhị
Tam thiên
Phật
Tiên
Thánh
Hiền
Đồ-đệ
là vậy đó, cả thảy đều chia ra làm Tam-phái, mặc Thiên-phục ba sắc khác nhau.
Sắc vàng gọi là Thái-Thanh về Phật-giáo,
Sắc xanh gọi là Thượng-Thanh về Tiên-giáo
Sắc đỏ gọi là Ngọc-Thanh về Nho-giáo.
Duy có Đức Giáo-Tông thì mặc áo trắng có thêu Bát-Quái và mão trắng gọi là "Mitre pontificale" mà thôi. Ấy là người làm đầu của 3111 vị kia. Lại còn Lễ-Sanh, cũng đủ Tam-phái gọi là: Elèves-Prêtres, nhưng vô số (Nombre illimité) vì chưa đứng vào hàng Chức-sắc.
Coi nơi đó rồi, ảnh dẫn tôi ra phía ngoài xa, thấy hai bên có lầu chuông và lầu trống,
lại có thang leo lên, gặp một khoảng rộng-rãi ngay chính giữa, ảnh nói rằng: Đây là Hiệp-Thiên-Đài, Chức-sắc nơi nầy Chí-Tôn sắp đặt chưa hoàn-toàn,
vì Đạo mới khai, nên vào chưa đủ số, duy có 21 vị, đẳng-cấp như vầy:
Hộ Pháp
Thượng Phẩm
Thượng Sanh
Bảo Học Quân
Bảo Văn Quân
Bảo-Đạo
Bảo-Pháp
Bảo-Thế
Bảo Sanh Quân
Bảo Cô Quân
Hiến-Đạo
Hiến Pháp
Hiến-Thế
Khai-Đạo
Khai Pháp
Khai-Thế
Tiếp Lễ
Tiếp-Đạo
Tiếp-Pháp
Tiếp-Thế
TiếpY
Vị Hộ-Pháp là người Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài, cũng như vị Giáo-Tông bên Cửu-Trùng-Đài, cốt chỉ để gìn-giữ luật-lệ, và nắm các bí-pháp của Đạo, lại phải bảo-hộ mấy chi dưới kia đặng làm cho tròn phận-sự.
Phía hữu:
* Thượng-Phẩm, là vị để bảo-hộ, sắp đặt phẩm-vị cho cả Đạo-hữu đã nhập-môn, từ Chức-sắc cho đến Tín-đồ, về chi Đạo.
* Văn-Pháp-Quân, là vị để bảo-hộ Văn-chương và Kỹ-nghệ cho cả nền Đạo,
về chi Văn- pháp (Arts & Belles-letters)
* Bảo-Học-Quân, là vị để bảo-hộ Ty Giáo-dục cho cả nền Đạo,
về chi Giáo-huấn.
phía tả:
* Thượng-Sanh, là vị để bảo-hộ cho cả sanh linh, dạy-dỗ đủ tư-cách đặng đem vào nền Đạo, nếu có điều chi sai trái luật Đạo, thì người lại phải xem-sóc; về chi Thế.
* Bảo-Sanh-Quân, là vị để bảo-hộ về khoa Y-dược mà cứu chữa cả Đạo-hữu của nền Đạo, về chi Bảo-sanh.
* Bảo-Cô-Quân, là vị để bảo-hộ cho những người cô quả, và trẻ côi cúc trong nền Đạo, về chi Bảo-cô.
Ấy là sáu vị làm đầu trong mỗi chi, còn dưới nữa, duy mới có Thập-Nhị-Thời-Quân, chia ra làm ba, và vài vị để giúp các vị Chưởng-Quản trên kia, như là:
Bốn vị giúp sức cho Hộ-Pháp,
Bốn vị --------- Thượng-Phẩm,
Bốn vị --------- Thượng-Sanh,
Một vị --------- Văn-Pháp-Quân,
Một vị --------- Bảo-Sanh-Quân,
sau sẽ còn nhiều nữa.
Mấy Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài kể trên kia là những vị nắm mối giềng cho nền Đạo, cầm đuốc sáng dìu đường cho cả thảy, lại là người để lập điều-lệ theo phận-sự của mình cho cả và sanh chúng, nên gọi là "Chơn Thần" của Đạo. Mấy ổng vẫn là người phò-loan (Médiums) tiếp tay những lời Thánh-Giáo của Đức Chí-Tôn, và các Đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần trên Bát-Quái-Đài, gọi là "Hồn" của Đạo, rồi giao lại cho Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài là những trang hành-chánh và phổ-độ, gọi là "Xác" của Đạo tùy theo đó mà ban hành ra cho cả Đạo-hữu.
Nếu có điều chi sai sót, không hạp với sanh-linh, thì Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài cũng có thể gởi lên Hiệp-Thiên-Đài mà xin chấn-chỉnh lại, nhưng cũng phải tìm điều hữu-lý mà biện-bác, mới sửa cải đặng.
M. Cao-Quỳnh-Đức lại giải thêm với tôi rằng:
Trong 21 Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài đã kể trên đây, có hai vị: Thượng-Phẩm và Thượng-Sanh, vẫn là Chức-sắc bên Cửu-Trùng-Đài, sắp vào hàng Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài, đặng binh vực quyền của Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, và cả sanh chúng. Đối với ba vị Chưởng-Pháp bên Hiệp-Thiên-Đài sắp vào hàng ngũ Cửu-Trùng-Đài, kế dưới Giáo-Tông, hầu có hiện diện, mà bảo-bô vun trồng các luật-lệ của Hộ-Pháp đã giao qua Cửu-Trùng-Đài, mà ban hành ra cho sanh chúng.
Coi xong rồi, bước xuống thang, ảnh dắt tôi ra phía sau Phòng-Văn, trình-diện với mấy ông Chức-sắc lớn, rồi dẫn coi nhiều chỗ khác. Mỗi mỗi đều có cắt nghĩa: Nào là cốt Phật Thích-Ca cỡi ngựa, tựa hình lúc ông Cyaca Mouni còn đương kiêm Hoàng-Tử,
từ Hoàng-thành tầm Đạo; ấy là trạng-thái lúc khai nguyên Phật-Giáo,
lại có cốt ông Sa-Nạt dựng phía sau, nào là Phật Di-Lặc,
còn hai bên đường thì có rừng trẫy sạch những tạp mộc, chừa lại nhiều cây cao lớn,
có tàn che mát-mẻ tốt tươi, gọi là Vườn Thiên Nhiên.
Anh dắt tôi lần-lần ra nhà tịnh, rồi lại trở vòng qua các nhà khác nữa.
Tôi nhắm coi thật minh-mông, ngó đà mỏn mắt, nghĩ cho M. Cao-Quỳnh-Cư, điều đình mà khai phá miếng đất nầy, đã để công-trình rất dày, mới đặng vậy.
II. PHU THÊ YẾU LUẬN
Tôi đi coi trót buổi mà chưa hết, song tôi thấy M. Đức có hơi mỏi mệt, nên tôi khuyên ảnh đi nghỉ, còn tôi thì lần hồi trở ra bàu Cà-Na, là chỗ sẽ tạo Động-Đình-Hồ mà coi nữa.
Đi vừa tới khóm rừng, chợt thấy một người đàn ông, một người đàn bà, cả hai trạc lối 26, 27 tuổi, ngồi đâu mặt với nhau mà nói chuyện, nhưng vì khuất cội cây,
mà hai người không thấy tôi.Tôi liền đứng dừng lại, suy nghĩ rằng:
Nơi đây là chốn tu-hành, sao lại có việc lén-lút nầy.
Cũng vì tánh hay tọc mạch, nên tôi lóng tai nghe.
Người đờn ông nói: "Qua nghe người ta đồn đã lâu rằng, bà già và em vô Đạo Cao-Đài, nhưng qua cũng có đến kiếm đôi ba lần, mà không gặp mặt".
Người đờn bà nói: "Phải, từ buổi anh say mê theo đàng điếm, bỏ em lăn-lóc một mình ở nhà quạnh hiu, trót năm trường, em cũng tưởng là chồng không đoái đến, thì cũng còn cha mẹ anh em, nên ở lại, rán làm cho tròn phận dâu con. Té ra, em để ý dòm coi, chẳng có một người nào thương em cả. Liệu thế chẳng an thân, nên em lạy cha mẹ mà về hẩm-hút với mẹ già, đâu cũng đặng vài tháng, ở ăn cũng yên.
Một ngày kia, em đang xách nước, thình-lình xây-xẩm mày mặt, phát nóng lạnh vài ngày, rồi mất trí luôn. Lúc ấy, em chẳng còn biết chi hết. Sau khi mạnh, em nghe bà già thuật chuyện lại rằng: Buổi nọ, em điên cho đến đỗi xé quần, xé áo, song cũng may, sao em không nói chi bậy bạ, duy cứ lạy hoài mà thôi, còn ăn uống, thì nhiều hơn mọi khi, nhưng chẳng chịu hơi cá thịt, cứ ăn ròng những tương chao, rau muối cho đến ngày nay. Khi đó, bà già thấy em như vậy, thì đau lòng, rước nào là bóng, chàng; thầy pháp, thầy phù gì thôi đã đủ. Kẻ nói đau ma, người rằng mắc quỉ, lập đàn chuyên chữa rộn-ràng, trót mấy tháng, không nên chi cả, rốt cuộc tiền mất tật còn. Sau lại, nhờ có mấy ông trong Đại-Đạo, hết lòng cầu khẩn; lớp thì truyền điển, người thì vãi bông, cho uống nước Thánh, chưa đầy ba ngày mà bịnh căn đã lần lần thuyên giảm. Lúc ấy trong nhà thì nghèo, lại cũng có thiếu chút ít của người ta, vì lúc chạy thầy cho em, thiếu sức nên buộc bà già phải vay hỏi, song cũng nhờ mấy ổng, kẻ nhiều người ít, góp nhóp đâu đặng vài chục đồng. Với tiền ấy, bà già đem trả cho người ta, còn dư bao nhiêu thì làm sở phí, chở em lên đến đây ở dưỡng bịnh. Mấy ổng lại cho thuốc men uống,
không ăn tiền bạc chi, trong mươi ngày thì em bình-phục lại như xưa. Từ ấy đến nay,
mẹ con ở luôn nơi đây, lo công-quả mà bồi đáp ân-huệ đã rưới ban của Trời Phật".
Chừng nói đến đó, tôi mới biết là hai vợ chồng,
vì việc gia-đình nên phải cách bức nhau, nay mới gặp mặt đặng.
Tôi lại nghe người chồng tiếp rằng:"Nay em đã mạnh rồi,
còn ở chi nơi đây. Vậy việc qua lỡ chơi bời, biết là sự quấy, qua đã ăn-năn nên mới kiếm đem em về. Em bằng lòng chăng?"
Vợ: - Ấy là một điều rất khó tính, vì em đã ngán-ngẫm tuồng đời. Việc vợ chồng, tuy anh để ý phụ em, chớ em vẫn giữ tròn bổn phận làm vợ. Từ ngày em về với anh, đã biết rằng chẳng có cưới hỏi chi, song ở cùng nhau đã mấy năm dư, trên em giữ lòng kính thờ cha mẹ, dưới lo phụng-sự cho chồng. Em cũng chán biết, phận em chịu nhiều nỗi đắng cay, nội nhà đều giữ Đạo Thiên-Chúa, duy có sót một mình em là người ngoại. Em vẫn biết Đạo nào cũng vậy, cứ dạy việc hiền lành đạo-đức, ngặt vì em còn cha mẹ già yếu, lại tùng theo Nho-Giáo, nên em không nỡ bỏ mà theo Đạo của anh. Bởi cớ ấy, nên tuy là vợ chồng thương nhau, mà cha mẹ, anh chị lại chẳng khứng cho anh ở với em, hằng ngày xô đuổi, coi em như cỏ rác, thị như Mên-man, mọi-rợ; đối-đãi với em chẳng khác chi với kẻ thù nghịch, lại đày đọa em quá lẽ! Nhưng đã lỡ việc vợ chồng, không lẽ một lần đạp cứt, rồi phải chặt chơn, nên em rán chịu đã mấy năm khốn-khổ.
Anh còn nhớ, lúc ông già em quá vãng, em lạy cha mẹ xin về chịu tang, và đưa ổng lên đàng. Cha mẹ nằng-nằng quyết một không cho, lại nói rằng; em muốn về đặng lạy thây ma thúi sao? Anh nghĩ coi, cha mẹ đã lắm chịu nhọc-nhằn sanh em ra nâng-niu từ bé chí trưởng, biết bao nhiêu công cán. Theo phong hóa nhà Nam ta, đã mấy ngàn năm giữ gốc Nho-Gia, sự vong như sự tồn, dầu mất dầu còn cũng kỉnh thờ như một. Huống chi Thánh, Thần đâu chẳng biết, duy trước mắt em vẫn thấy, cha là Trời, mẹ là biển. Nay cha đã thác, dầu ơn sinh dưỡng, mà đối với một vài lạy đưa lên đường, há tiếc hay sao?
Vì em thầm nghĩ như vậy, nên năn-nỉ khẩn cầu hết lời, tuy là cha mẹ cho đi, nhưng trong ý, không chút nào ưng chịu. Từ ngày em lo việc tống táng ông già em xong, trở về cho đến sau, thân em lại càng khốn cùng hơn nữa! Song đã thương chồng, nên em đành chữ làm thinh, mà gắng chịu đắng cay từ ấy.
Bởi các cớ ấy, dầu cho em còn xét chút nghĩa vợ chồng, cũng khó nỗi về với anh cho tiện. Một là vì em đã khấn vái với Trời Phật, mà nhập-môn cầu Đạo, nay chẳng lẽ em bán-đồ nhi-phế? Hai là nay bà già em tuổi đã cao, mà lại góa bụa, không còn con cái chi khác hơn là em nữa! Nên bổn-phận em là con, phải vì tình chắt-chiu khi bé thơ, mà ở vậy hủ-hỉ với mẹ già, hầu thủ hiếu cho đến ngày lâm chung của bả. Đã vậy, phần em lại ăn trường chay, cũng là một điều rất khó cho em về chung cùng với anh đặng.
Chồng: - Em khéo nghe lời họ, chuyện gì thì chẳng nói làm chi, chớ việc ăn chay, là điều thúc-xác. Theo như Đạo của qua, ấy là trái hẳn với Trời Đất. Vì Tạo-hóa đã sanh vật ra mà dưỡng nhơn, lại chẳng chịu dùng, bo-bo mà ăn những thảo-mộc, là chất không bổ-dưỡng xác thịt của ta, thì phải mau chết. Mà chết vậy, lại có tội tháo-trúc không chịu ở thế-gian, càng phải sa vào Địa-ngục.
Vợ: - Em là phận nữ-nhi, tuy có học Nho chút ít hồi thuở nhỏ, có biết chi cho lắm. Nhưng nghe mấy ông lớn trong Đại-Đạo Tam-Kỳ giải về việc ăn chay, tuy em không hiểu cho hết, chớ cũng còn để ý chút ít, sơ-lược như vầy: Các sanh vật của Tạo-Đoan đã biến hóa ra, đều có sự hằng sống, cũng như loài người, nhưng khác nhau là vì mình đứng về hàng thứ ba trong tam tài: "Thiên, Địa, Nhơn". Người nhờ hưởng đặng khí huyết tinh-tấn trong sạch nên trí não thông minh, biết nói, biết luận và biết nhiều điều khôn ngoan hơn cầm thú. Còn sanh vật lại khác hơn ta là do nơi chất, nên trí não chẳng có, ngu muội, dữ-dằn, thô kịch. Nếu ta đem máu huyết ô trược của nó mà chan vào với sự trong sạch của ta, thì chẳng khác chi lấy bùn mà bỏ vào một ly nước trong, lần hồi một khi một ít. Rốt lại, thì nước ấy trở nên đục đen. Em chỉ sơ cho anh thấy, những sanh vật có sự độc, mà ta vẫn thấy rõ-ràng, như con cá rô, ăn vào thì ho và nhức mỏi. Con cua đinh, làm cho nổi đơn phung; và nhiều thú khác nữa... Huống chi heo bò, vẫn có chất khác với người, tuy cái độc của nó không hại ta hiện thời, mà nó vẫn làm cho ta sanh ra đau đớn về sau xa nữa. Lại trong các thú rừng, có nhiều con dữ dằn, ăn vào lần lần thân thể ta đều truyền-nhiểm các chất trược của nó. Bởi cớ, nên chất thú pha với chất người, mà làm cho người phải hóa ra hung tợn, mất cả chất Thánh của Tạo-hóa sanh, mới làm ra những điều tàn bạo ghét lẫn nhau, giành-giựt nhau, cho đến giết nhau, và làm những điều tồi phong bại tục. Ấy mới trái hẳn với Tạo-đoan, là Đấng Háo-sanh, ưa sự sống mới biến hóa sanh-linh. Nay vì người lầm-lạc mà hại lẫn nhau, nên Ngài mới khai Đại-Đạo đặng bảo tồn nhơn vật. Huống chi xưa, buổi tạo Thiên lập Địa mấy ngàn năm đầu, các Thánh-Hiền trước nào có ăn sanh vật. Nếu như lời của anh rằng: "Ăn chay là ép xác mà chết mau", sao những người xưa cứ dùng lê hoác mà sống trên vài trăm tuổi; mà lại sách vở, hãy còn ràng-ràng rằng: "Người bày biện ra mà dùng sanh vật, phát khởi sau vua Thần-Nông mà thôi".Anh lại nói rằng: "
Thảo-mộc là vật-chất không nuôi nấng tinh-thần" thì cũng còn một điều rất lầm-lạc; là vì buổi xưa kia, các bậc Thánh-Hiền, để hết trí não, tìm kiếm phương-châm, đặng cứu sanh-linh, vì đem chất thú vào mình, mà nảy sanh ra bịnh hoạn, thì phần nhiều lại dùng cỏ cây mà làm thuốc. Cho đến hiện thời, các nhà Hiền-Triết về Y-Khoa toàn trong hoàn-cầu đều noi theo đó mà bào chế ra những Y Dược mà trị bịnh; thì tất nhiên, thảo mộc là vật rất quý báu, để bổ dưỡng và phục nguyên thân thể loài người chớ!
Nếu có thể, bớt ăn sanh vật, là một phương tránh đặng sự bịnh hoạn xảy ra một ít. Còn dùng toàn lê hoác, chẳng khác nào ta ngăn ngừa bịnh trước. Người đã không đau ốm, vật lại khỏi bị sát hại; ấy chẳng phải là điều hữu ích chung cho cả hai bên, nhơn và vật sao?
Chồng: - Ấy là điều họ nói ma-ma, phật-phật, có chi gọi là hiển nhiên, em khéo nghe lời họ mà chi. Họ kiếm tích kia truyện nọ rồi bày ra thờ phượng bụt thần, cũng là một điều sai. Theo Đạo của qua, duy có thờ một Đấng, Đức Chúa Trời mà thôi!
Vợ: - Việc ấy em chẳng cãi, nhưng em thấy trong Đại-Đạo Tam-Kỳ, trên thờ Đức Cao-Đài, là Chúa cả Càn-Khôn. Còn theo Thánh-Giáo, thì gọi là Đức Chúa Trời, vẫn cũng là một Đấng ấy. Dưới thì thờ mấy Đấng đã ra công khai các Tôn-Giáo buổi xưa, đều là: Phật, Tiên, Thánh, Thần. Trong số ấy, có Đức Giáo-Chủ Jésus Christ, là Chơn-linh của Đấng Tạo-Hóa, thai xác phàm dìu Đạo Thánh miền Âu-Châu, và cũng có Đức Khổng-Phu-Tử, là người đã khai Nho-giáo (Nhơn-đạo).
Ngài cũng là một vị Giáo-Chủ. Các Đấng đã thờ nơi Bát-Quái-Đài, đều có công lớn với đời, nên tên tuổi vẫn còn lưu truyền, nơi sử xanh bia tạc. Trong hoàn cầu, còn ai là
chẳng biết nữa! Thảy đều dìu lành cải dữ cho sanh linh, thì cái ân-huệ ấy,
chẳng đáng cho ta thờ phượng và kỉnh lạy sao? Huống chi trong nền Đạo Thánh,
em có thấy thờ đủ các Thánh Âu-Châu,
thì cũng chẳng phải là việc ắt thờ có một Đấng Đức Chúa Trời mà thôi đâu!
Chồng: - Còn việc lạy nữa,
theo qua thì duy có lạy Đức Chúa Trời và người sống mà thôi,
chẳng nên lạy bụt thần và những người chết.
Vợ: - Điều ấy, anh luận rất sai lầm. Anh có hiểu lạy là chi không, mà vội bàn như vậy? Để em kiếm một ít lời em còn nhớ mấy ổng giải-nghĩa, mà thuật lại cho anh nghe:
Lạy hay là chào, đều là sự kỉnh nơi lòng, phô bày ra ngoài, cho thấy cái hình-trạng, nhưng tùy sự trọng khinh, cao thấp, thì cái lạy ấy, dầu với ai làm cũng đặng cả. Thí dụ như, theo phong-tục người Âu, nếu kỉnh nhau, như trọng, thì quỳ gối cúi đầu; còn thường thì dở nón, ngang vai lại nắm tay dục-dặt. Theo Annam ta, hễ trọng kỉnh thì lạy, vừa vừa thì xá và cúi đầu. Còn Chà-và và Cao-mên, nếu gặp người trưởng thượng, thì mọp dài xuống đất, bất kể là nơi nào. Ấy là phong-tục của mỗi nước khác nhau. Nếu Annam ta, mà cấm lạy các Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì làm thế nào tỏ sự kỉnh của họ đối với các Đấng Thiêng-Liêng ấy đặng? Còn các xác chết, dầu cho có lạy, thì cũng là lạy cái vong-linh; mà dầu cho lạy xác chết, thì lại tội chi sao? Cho đến đỗi, nắn hình đất, sành, cây kia, cũng còn có thể lạy xá đặng, hà tất chi cái xác chết ấy, trước đã là ông bà, cha mẹ, cô bác của ta, ta vẫn nhờ có xác đó, mới hóa sanh ra xác nầy. Nếu ta vội quên cái ân thâm nghĩa trọng của xác ấy, thì cái xác của mình đây mới liệu thế nào? Dầu luận cho tột lý, thì bất quá là cái xác của con cháu, lạy cái xác của ông bà cha mẹ, chớ có chi đâu mà từ chối. Lại nếu không cho lạy xác chết, vì nghĩ rằng, đã thành ra ma quỉ, lại thêm một điều sái hẵn nữa! Là đến chừng nào tới phiên mình chết, thì cũng vậy, con cháu của mình cũng cho mình là tà quái, truyền tử lưu tôn như thế, thì tu-hành làm chi, mà rốt kiếp cũng hóa ra tà mị. Nếu như thật ắt vậy, thì thà là đừng giữ Đạo, hầu khỏi bị con cháu ngày sau khi dễ. Huống chi, phong hóa nước nhà vẫn đã có sẵn tư-cách như vầy:
- Một mình Đức Chí-Tôn, là Đấng tạo thành Càn-Khôn thế giái, đứng về Thập-Nhị Khai-Thiên. Lại trong tay Ngài, nắm Thập-Nhị-Thời-Thần, thì số 12 là số riêng của Ngài, tất nhiên, ta phải lạy Ngài 12 lạy.
- Các Đấng Phật, Tiên hay về Cửu-Thiên Khai-Hóa, đứng vào hàng Cửu-phẩm.
Ấy vậy, số 9 lại là phần riêng của chư Phật Tiên, thì ta lạy các Ngài 9 lạy.
- Các bậc Thánh, Thần vẫn đứng về Tam-phẩm nơi Thiên-đình,
thì số 3 là số riêng của bậc Thánh Thần, thì ta lạy các Ngài 3 lạy.
- Người trưởng thượng trong phàm gian, vì còn thọ khí Âm-dương, mà hưởng sự sống nơi thế-trần, thì ta lạy 2 lạy. Hai lạy ấy, tất là một lạy Trời, một lạy Đất,
chớ người chưa hưởng đặng lạy nào cả.
- Bậc nhơn-phẩm đã thác thì ta phải lạy 4 lạy. Nghĩa là, một lạy Trời,
một lạy Đất, còn vong hồn của người,
duy có hưởng 2 lạy mà thôi.
Ấy cũng là một vẻ phân biệt về Lễ, rất có trật-tự, thì nào phải là điều lộn-xộn đâu, mà ta mờ hồ, để bàn luận đến việc kẻ lạy người không, cho mất niềm hòa khí, lại sanh ra lẽ khi dễ Thánh Thần?
Em lại hằng thấy những người Âu-Châu, mỗi khi đi ngang một đám xác, bất câu là sang hay hèn gì, đều dở nón cúi đầu chào, ấy là người tỏ lòng thương mến và kỉnh cái xác chết chớ gì, nếu người cho là ma quỉ, thì đã lánh xa trước, lẽ nào lại thi lễ! Theo như lời của anh nói, em chưa ắt là phải, vì em rõ biết, Đức Giáo-Chủ Jésus Christ có để lời sấm truyền rằng: "Bây phải kỉnh thờ cha mẹ bây" (Adorer vos parents),
dầu sự vong như sự tồn cũng là một điều rất chánh đáng, ai ai cũng rõ biết cả.
Chồng: - Con nhỏ nầy kỳ quá, qua nói phải trái cho em nghe rồi em muốn kích-bác qua, lại chịu nghe theo họ. Em nghĩ coi, trong hoàn-cầu thiếu chi là Đạo,
lại bày đặt làm gì nữa cho rộn tang.
Vợ: - Phải, em đâu cãi anh. Các Đạo như trong Ngũ-Chi Đại-Đạo, của em đã nói hồi nãy, đều là Chánh-giáo cả, thảy đều dạy làm lành lánh dữ, tránh dạy theo ngay, là buổi mới sơ khai của mối Đạo mà thôi. Những sanh linh nào hiện thời trong lúc ấy, thì còn giữ-gìn lời Thánh-Giáo, mới thọ hưởng thái-bình. Lần lần, một vài trăm năm sau, nhằm thời kỳ khác, tất nhiên nhơn sanh cũng khác, đã xa lời truyền dạy, đâu có thấu đáo cái nhiệm-mầu của Đạo. Mỗi ông có trí-thức, tùy ý của mình, bày chế ra một cách, hoặc đặng cầu danh, hoặc để thủ lợi. Đạo thì chánh, mà vì người sửa cải ra lần lần mà phải hư hoại, cho đến đổi chánh trở nên tà. Thí-dụ như: Phật-Giáo xưa kia, có dạy đi làm đám đặng lấy tiền công-đức, hoặc làm đồ mả, đốt như bây giờ được đâu? Còn những bí-pháp của Tiên-gia, chẳng phải để làm chuyện giả ngộ như bọn Tả-đạo bày ra, ngồi nghinh xiêng quay gọi rằng trị tà, như thầy pháp vậy? Nho-giáo xưa hằng dạy người giữ luân-lý, tam-cang, ngũ-thường, theo như lời các Thánh roi truyền chỉ-dẫn, mà nào có biểu, trung với vua mình, rồi dùng sức mạnh hiếp thế yếu, gây ra việc đồ khổ cho nhơn sanh? Còn hiếu thảo, cũng chẳng phải biểu ta dối trá, gạt gẫm người, hoặc giết người, giựt của về nuôi cha mẹ?
Mà hiện thời, anh đã thấy rõ-ràng, ứng-chứng ngày nay trên thế-giái nầy, đều như vậy cả. Cho nên các Đạo vì nơi lầm-lạc ấy, mà thành ra điều kích-bác gây lẫn nhau; cũng vì vậy mà sanh linh phải đổ máu, chém giết nhau, chẳng biết bao nhiêu sanh mạng rồi, thậm chí cho đến người một sắc da, mà coi nhau như thù nghịch, thì còn chi gọi là Đạo? Bảo làm sao mà Tạo-hóa không lo hoằng khai Đại-Đạo, qui Tam-Giáo, hiệp Ngũ-Chi, chuyển kỳ Hạ-ngươn là lối chót nầy, mà sắp đặt cho nhơn quần xã-hội cả hoàn-cầu, dạy phải biết thương yêu nhau, dìu-dắt nhau, chẳng luận là sắc dân nào, cũng đều là con cái của Ngài cả thảy; thậm chí cho đến sanh vật chót hết là côn trùng, Ngài cũng muốn cho ta chẳng nên ỷ khôn ngoan mà hiếp lẫn nó, vì chúng nó cũng thọ sanh như ta. Đặng vậy, mới xứng đáng phận làm người của Tạo-hóa ban ân cho, mà làm anh cả các loài vật. Ấy là tôn-chỉ của Đại-Đạo Tam-Kỳ đương lúc nầy, muốn dìu sanh chúng, kết dây liên-ái mà thọ hưởng hòa-bình đó.
Em nói cho cùng lời, là nếu sức phàm của người, mà cải quá lập Đạo kỳ nầy, mà cũng còn theo như làm sái tôn-chỉ trước, thì Đức Chí-Tôn chẳng hề ngồi yên, mà ngó sự
tiêu-diệt, trong buổi Hạ-ngươn nầy; thế nào cũng phải điều-đình một Đạo khác, cho sanh-linh đặng hưởng sự yên tịnh, mới nhằm Thánh-lý của Ngài, là một Đấng háo-sanh, ưa sống, chớ chẳng chịu giết lẫn nhau.
Chồng: - Em nghe lóm những lời của họ bày bịa ra mà dụ người, rồi hô lên Đạo! Đạo! Chớ Đạo là gì? Em tưởng hễ có Đạo mới sống, còn không Đạo như những người chẳng biết kia rồi chết hay sao?
Vợ: - Nếu anh nói vậy lại sai lầm hơn nữa! Đạo là một điều rất nhiệm mầu huyền-bí cao xa, em chẳng hiểu cho thấu đáo, mà nói cho cùng tột cho anh nghe. Mà dầu cho bậc nào, trong thế-gian nầy, là cao thượng hơn hết, cũng khó giải cho tất lý.
Em chẳng nói chi cho lắm, nhưng anh phải hiểu rằng: Dầu cho Trời Đất, hay là chi chi trong Càn-Khôn thế giái nầy, cũng là nơi Đạo mà biến hóa ra. Nếu chẳng có Đạo, thì chẳng hề có mảy mún gì trước mắt hết. Ấy là em nói sơ việc huyền-bí, là điều em không rõ ắt, nhưng tùy theo sách vở của các Đấng Hiền-Triết xưa để lại.
Còn nói chi việc hiện tại trong trái cầu nầy: Bổn phận làm người rất khó, nếu vô đạo, thì đâu có phải là bực nhơn-phẩm, mà có thế nào bền vững đặng.
Thí dụ như:
- Đứng vào hàng vua chúa, lòng chẳng khoan hòa, coi thần dân như cỏ rác, đắm mê tửu sắc, chẳng quản đến nước nhà, là vua vô đạo, ưa nịnh xa trung, không nghe theo lời đoan-chánh của tôi con, lại chịu những sự nịnh hùa của tà-mị, tức nhiên phải ngữa nghiêng xã tắc, hư hại giang-san, rốt rồi lôi cuốn những điêu tàn, mà gây cho đoàn con dân phải chịu bùn than khổ sở.
- Làm quan, trên chẳng trọn lòng thờ chúa, dưới chẳng hết dạ thương dân, dua mị theo lũ nịnh tà, hầu lấy quyền to hiếp chúng. Đã chẳng lo đền ơn chúa, lại không thái độ trị dân, kiếm chước thâu đoạt của người, lần lần rồi gây cho con dân thán oán, mà làm loạn cho nước: Ấy là tham quan ô lại, tất là vô đạo.
- Dân vô đạo, thì chẳng biết đến quốc-vương thủy thổ, không kiêng sợ luật nước nhà, mà hóa sanh ra điều trộm cướp, tàn nhẫn hại nhau, nhiễu loạn cả sanh linh, lần lần hiệp nhau cho có sức, gầy vương đồ bá, cướp giựt ngôi vua mà sanh rối cho nước.
- Vợ chồng ở với nhau vô đạo, chồng thì tửu điếm trà đình, ưa theo phóng đãng, chẳng quản đến tình nhà, bỏ vợ bỏ con đói rách, việc hư nên của gia-đình không thấu đáo, chẳng dìu vợ, dạy con, theo đường ngay nẻo thẳng, thiếu đức kém hạnh. Vì nơi vô đạo ấy, mà buộc vợ phải gây thêm rối, không biết nễ chồng, lần lần sanh ra cờ bạc, bỏ luống bổn phận đờn bà là tề gia nội trợ, chẳng còn giữ tiết trinh, hết tưởng đến phận nưng khăn sửa tráp. Rốt rồi, phải hư-hoại gia đình, cũng là đều vô đạo.
- Phận làm con, chẳng kỉnh thờ cha mẹ, quên ơn dưỡng-dục, bỏ nghĩa sanh-thành, lời dạy-dỗ chẳng nghe, quen theo đoàn du đãng, khi thị cô bác, không tưởng đến cậu dì, làm cho hư hoại tông môn, ấy là con ngỗ-nghịch, tức là trái đạo làm con.
- Anh em ở với nhau vô đạo, là chẳng tưởng tình máu thịt, lớn không dìu nhỏ; nhỏ nghịch với lớn, chẳng biết thương nhau, lần hồi mất niềm huynh-đệ, sanh việc loạn dâm, anh chồng em dâu, hóa ra thù nghịch, mà chém giết nhau, làm cho nhục-nhã tổ tiên, vậy là vô đạo.
- Chủ ở với tớ vô đạo, là chẳng giữ phận bề trên, tham công tiếc việc, không xét cực nhọc của tớ, làm cho tớ chẳng phục lòng, mà hóa ra những điều ngoan ngạnh với chủ, thì chẳng khác nào ép cho tớ làm trái phận sự. Ít lâu rồi tớ không vâng mạng chủ, ấy mới gọi là tớ phản tâm, mà mang chữ tớ vô đạo.
Đó là em luận sơ điều vô đạo của người, mà làm ra hư hoại cho cả nước, cả dân. Tuy là về Nhân-Đạo, ai cũng cho là thế tình đời, nhưng cũng có ảnh-hưởng hiệp về Thiên-Đạo. Nên phận làm người muốn cho tròn, phải biết mượn Đời giồi Đạo, lấy Đạo dìu Đời,
cả hai nương nhau mà đi cho có cặp mới đặng.
Bởi cớ cho nên, buổi ban sơ của Trời Đất có rồi, thì hóa sanh các vật trước,
chừng sanh ra loài người, thì Đấng Tạo-Đoan phải khai Đạo, mà dìu-dẫn cả nhơn vật,
tức là con cái của Ngài cả thảy.
Khi mang lốt phàm vào rồi, thì chẳng khác nào kẻ mù tối. Lớn khôn lên, vừa đủ trí-hóa, trước mắt duy có thấy điều tranh danh đoạt lợi, vật quí phẩm cao, rất phù hạp với thường tình, áp nhau giành-giựt cho đến giết lẫn nhau, đành quên phức cái nhơn-phẩm của mình, một chủ khách, đến đây đặng bồi đáp sự trả vay cho nhau. Rốt cái đời của người, thế cũng chẳng quá trăm năm, nào khác giấc chiêm bao, nghèo cũng thế mà sang cũng thế! Buổi chung qui, cứ nắm hai tay không, cao dường bao, thấp cũng dường bao! Linh-hồn cứ đến Tòa phán xét, cân tội với phước mà định đoạt; hoặc phải chịu luân-hồi chuyển kiếp, hoặc hưởng sự an-nhàn vui vẻ thiêng-liêng. Té ra, cái giàu sang của ta, đã làm quấy nơi thế trần nầy mà có ra, chẳng hề theo mà chuộc tội cho ta! Lại còn đống xác trơ trơ, dẫu cho ai gẫm cũng như ai, vùi nơi nấm đất, dầu tốt dầu không, lâu rồi cũng ra đám mồ oan cỏ lạnh, nằm nơi đồng trống sương gieo, thỏ lặn ác tà, đố ai tránh khỏi. Thế cũng chẳng nên giành giựt mà chi, rồi phải vay thêm cho vun đống,
lẫn kẻ nghèo hèn, phải ra thân đói lạnh, làm cho trái với Tạo-Hóa là một Đấng Từ-Bi,
buổi nầy là cùng tận, mà hãy còn lo phương cứu thế.
Vì thương nhân loại, nên từ xưa những nay, mỗi khi trong nước nào, vì sự hiếp lẫn nhau mà khởi loạn, thì chính mình Ngài đến mà khai Đạo, hoặc sai các Tiên-Phật thai phàm mà mở các Tôn-Giáo, hầu làm cho yên tịnh, nhưng cũng chưa hề thấy đặng sự hòa-bình cho sanh chúng giờ phút nào cả.
Ấy vậy, Đạo nghĩa là một con đường ngay thẳng (la Vérité) của Tạo-hóa khai ra cho các Chơn linh đã mang xác phàm nầy, noi theo sự chơn thật hiền lành mà thủ cái vai tuồng của ta, đã lãnh chịu trước mặt Ngài, mà đến trong cõi dinh hoàn nầy, làm xong
phận sự rồi, buổi chung quy mới có thế noi theo nấc thang cao hơn, cũng trong con đường ấy, mà hội diện với Ngài, nhưng cũng tùy theo việc làm nặng nhẹ, phải chăng nơi đây, mới sắp theo đẳng cấp: Phật, Tiên, Thánh, Thần mà thọ ban trong khi tới trước mặt Ngài mà phụng mạng. Ấy là tôn-chỉ các Đạo đã khai ra từ thỉ tới chung, đặng dìu dẫn sanh-linh.
Còn những trang đã lãnh mạng Trời đến đây, tuy cũng làm tròn phận sự, nhưng có gây ra những điều phải vay vay trả trả, chừng buổi lâm chung so tội phước mà định, rồi tùy đẳng cấp nơi trần nầy, mà luân-hồi trở lại, phước nhiều thì làm quan, làm giàu; ít phước thì lãnh bực thường nhân, phải chịu cay đắng, mà trả cho nhau cho đến lúc xong, rồi cũng phải tu tâm dưỡng tánh, mới trông thoát khỏi nơi vòng chuyển kiếp. Lại những kẻ đã đến đây, làm trái nhơn phẩm, thì còn nói chi. Buổi thác cũng đến Tòa phán xét mà chịu xử đoán, rốt rồi thì lộn trở xuống, mà chuyển ra cầm thú, hoặc phải mất cả chơn-linh, mà biến sanh ra côn trùng, thảo mộc rồi ra công tu luyện ngàn năm, may mà đắc quả, mới trông lên tới bậc người. Là việc công bình của Trời Đất đã phân định, ấy mới rõ Tạo-hóa là một Đấng cầm cân thiêng-liêng.
Cho nên, em nói rằng: Đạo vẫn thiệt nhiệm mầu cao xa khó giải là vậy đó.
Chồng: - Tuy là em nói vậy, chớ qua chẳng hề tin chút nào, vì là điều không thấy hiển nhiên, bây giờ sống ở nơi đây, ăn theo đây, làm theo đây, biết kịp người hay chưa, huống chi phải tính việc cao xa, đều là hư thiệt không ắt, mà qua vẫn thấy họ bày điều mộng mị như: Các Đạo đều thờ hình ảnh Phật, Tiên, Thánh, hay là viết chữ. Còn Đạo Cao-Đài, sao lại thờ có một con mắt là ý chi vậy?
Vợ: - Anh hỏi thì em nói ngay, nhưng sự biết của em rất hẹp hòi, vì nghe mấy ổng Thuyết Đạo, bổn Đạo đến nghe thì đông, làm cho em phận gái, duy có đứng xa xa phía ngoài, nghe lóm mà thôi, vậy để em luận sơ cho anh nghe:
Con mắt ấy, là của Đấng Tạo-Hóa, nên gọi là Thiên-Nhãn. Vì Ngài không có hình ảnh chi đến tại thế cho ta thấy; nên phải tựa con mắt ra mà thờ, ảnh hướng chỉ về: Ngài là Đấng Chúa cả Càn-Khôn thế giái, tức là mắt Ngài soi khắp mọi nơi, nên thế tình hằng ví câu: "Hoàng-thiên hữu nhãn", nghĩa là Trời có mắt là vậy đó! Nếu ta muốn thờ Ngài, mà ta vẫn chẳng biết tướng diện của Ngài ra thể nào, thì không lẽ ta tượng hình ra là Annam, Tây, Cao-mên, hay là theo một sắc dân nào khác nơi thế nầy, thì sao cho nhằm lý?
Em nhớ mấy câu Thánh-Ngôn của Đức Cao-Đài Thượng-Đế chỉ phán về Thiên-Nhãn,
cho các Môn-đệ Ngài trong buổi Đại-Đạo Tam-Kỳ mới khai như vầy:

Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả ngã giả.

Mấy câu Thánh-Ngôn nầy nghĩa lý rất sâu xa, sức phàm khó giải, cho thấu cái rộng minh-mông của câu văn, nhưng theo phận của em, thiếu học lại trí-thức ít oi, nên luận sơ như vầy:
- Thiên-Nhãn nghĩa là mắt Trời.
- Mà mắt Trời lại thông đồng với Mắt của mình, cũng nên gọi là "Thần Lương-Tâm" (Conscience).
Nên mỗi việc chi mình muốn thi-hành, tất nhiên trước hết mình phải gọi Thần Lương-Tâm mà cậy nhủ, chỉ giáo điều hư thiệt, tà chánh thế nào, rồi mình mới định: làm hay bỏ. Thoảng có điều chi, mình gọi là không tốt, không hạp với thế tình đời, không đoan chánh, thì mình còn dụ dự, chưa dám thi-hành, là vì mình tính: Nếu làm cho ra cái hình, theo trí của mình độ, thì sợ e mắt mình xem không hạp. Mà hễ mắt mình xem không hạp, thì lại làm cho tâm tánh mình áy-náy: Đó là bị Thần Lương-Tâm cản trở rầy la. Hễ Thần Lương-Tâm quở trách, tất nhiên là Trời quở vậy.
Ấy vậy, mọi việc chi của ta đã tính nơi Tâm ta, dầu hư dầu thiệt, thì Thần Lương-Tâm đều hiểu hết, mà chỉ-dẫn cho ta rõ điều tà, lẽ chánh. Nếu Thần Lương-Tâm hiểu, thì tất nhiên Đấng Tạo-Hóa đã rõ biết hết. Nên chi, Tâm mình lay động thì Ngài đã thấu rồi. Bởi cớ, nên phận làm người phải biết rằng, mọi việc chi của ta làm lén-lút một mình, dầu lớn dầu nhỏ cũng vậy, là duy có giấu-giếm với kẻ có xác thịt như ta mà thôi, chớ chẳng hề khi nào khuất mắt Trời và các Đấng Thiêng-Liêng cho đặng. Nếu Tạo-Hóa riêng để cho ta giấu đặng Ngài, thì còn có chi gọi là mầu nhiệm của Trời Đất. Vì vậy, mà có câu: "Thiên-giả ngã giả", chỉ là: Hễ ta thấy, thì tất nhiên Trời cũng thấy vậy, có thế thông-đồng với nhau.
Thí dụ: Theo trí ngu xuẩn của em tưởng như: Một đứa ăn trộm kia, khi đã để ý, có một nhà nào để cho nó đột nhập, thì trước hết, nó gạn hỏi Thần Lương-Tâm coi có thế lấy của người đặng chăng? Ấy là điều tà vạy, thì thế nào Thần Lương-Tâm cũng nói với nó rằng: Không đặng! Lại giải cho nó biết: Nếu nó khoét vách, họ hay đặng la lên, ắt có kẻ đến bắt nó. Nghe đến đó, nó hết hồn, rồi dụ-dự, tính tới tính lui. Trong lúc dùn thẳng ấy làm cho nó bối rối. Lại nếu sự ham muốn quá lẽ của nó có hơi sấn-sước thì Thần Lương-Tâm vẽ cái cảnh trạng sẽ tới cho nó, hoặc bị ở tù, người hành-hà thân nó, làm cho nó bỏ vợ con nó đói khát, chừng ấy nó hoảng-hốt mà xuất hạn. Ấy là, Đấng Tạo-Hóa rầy quở nó. Cũng có khi nó vưng theo lời Thần Lương-Tâm mà bỏ qua, không làm việc sái ấy.
Còn nếu nó tính sước mà làm, là bởi tánh-chất tà vạy, tuy Thần Lương-Tâm chỉ dẫn cho nó biết là sái, mà vì nó muốn quá rồi làm bậy, chớ vẫn trong lòng sợ-sệt luôn, vì bị rầy hoài cho đến cùng. Tưởng như khi nó đương hành-tàng việc sái ấy, thì Thần Lương-Tâm hằng nhắc chừng từ cái quấy của nó đương hành-động, làm cho nó hồi-hộp, cho đến khi nó đem đồ gian ấy về dọc đường, gặp người, hoặc thoạt nghe nhánh cây rớt, thì cũng làm cho nó giật mình mà hoảng-hốt. Lúc bán đồ thì cũng vậy, thậm-chí cho đến nó thấy món nào, là đồ nó trộm của người còn trước mắt nó, chẳng khác chi nó còn bày đồ gian trước mắt Thần-Lương-Tâm, thì nó cũng bị quở mà bức-rứt hoài!
Ấy vậy, mọi việc chi trong thế-gian nầy, đều có ảnh-hưởng theo đó cả, chẳng kể là việc nhỏ hay lớn. Đây là một điều ứng chứng của mỗi người hằng thấy. Việc nào của ta làm phải, thì Thần Lương-Tâm khen, mà làm cho ta vui lòng hớn-hở; còn điều chi của ta làm sái, Thần Lương-Tâm quở rầy, lại làm cho trong lòng ta xốn-xang là như thế.
Trong Đại-Đạo Tam-Kỳ thờ "Thiên-Nhãn" là chủ ý đó; mà cũng nơi đó là nguồn cội của "Đạo" tất là một điều huyền-bí sâu-xa, để cho bậc Nhơn-phàm kiếm hiểu mỗi tứ riêng, tùy theo sự học thức cao thấp, hầu răn lấy mình mà giữ cho trọn phận. Huống chi, trước Chúa Giáng-Sanh, miền Âu-Châu cũng có thờ con Mắt, gọi là "L'oeil du Maitre", lại có những sách vở của nhiều bậc Hiền-Triết xưa luận về Thiên-Nhãn, còn để lại ràng-ràng, mà anh không để ý tìm biết./.
CHUNG

Thư Viện 1      4   5