Bủu Minh Ðàn

 

       

LỆNH CỦA NGỌC HOÀNG


Chủ tịch của bản đường là họ Quan đăng đài.

Thánh Đức dạy: Ngọc Chỉ ban xuống, lịnh cho Thành Hoàng trong vòng 5 dặm,
Phước Thần trong vòng 10 dặm tới nghênh đón, chư sinh hảy nghiêm chỉnh hầu tiếp giá chỉ.

Kim Khuyết Nội Tướng là họ Từ giáng bút.

Thơ:

Duy Hoàng thiết thiết niệm nguyên linh
Thánh Phật thinh thinh cứu khổ kinh
Ngọc Chỉ trung thu ban trực hạt
Nhất luân minh nguyệt chiếu u minh

Dịch:

Tiên cầu tha thiết cỏi huyền linh
Phật tụng vang vang cứu khổ kinh
Ngọc Đế trung thu vừa giáng lệnh
Vầng trăng ngời tỏa chốn U Minh.



Đức thánh dạy: Ta mang sắt chỉ của Ngọc Hoàng xuống đây, đêm nay tuyên đọc. Thần Nhân cúi lạy.

Kính vân



Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Thuơng Đế u linh cao cả dạy rằng:

Trẫm ở điện Linh Tiêu, lòng lo thế đạo, mắt nhìn bụi đỏ cát đen bay ngộp trời, chốn nhân gian luân thường đảo lộn, nam không trung hiếu, nữ thiếu tiết trinh, cho Tiên Phật là hảo huyền,cho Thần Thánh là chẳng thiên liêng, phong tục tập quán xã hội thì tồi bại, nhân tình nghĩa lý tiêu tan, lòng trẫm đau buồn quá đỗi, không nỡ ngồi yên nhìn chúng sanh đoạ đầy chốn tối tăm mà không cứu. Thấy rằng Thánh Hiền Đường ở Đài Trung thuộc cõi Nam Thiên cai qủan, có mỡ Trường dạy dỗ chúng sanh phải tốn hao nhiều sức lực của Thần Nhân mới phổ biến được đạo, nay lại mượn tập chí Thánh Hiền quảng độ bến mê, nghiệp cơ bút thăng tiến nghiệp thánh huy hoàng. Nay Trẫm đặc biệt ban lệnh khai mở kho báu kinh điển, mà tên sách là Địa Ngục Du Ký, ra lệnh cho Phật Sống Tế Công chỉ dẩn cặn kẽ cho thuật giả thánh bút Dương Sinh dạo mười điện Địa Ngục rồi về kễ lại tỉ mỉ sự tình cho người đời rõ những thảm cảnh của các linh hồn tội lỗi hầu gặt hái công phu khuyên can giáo hoá. Do đó sách nầy là sách phi phàm, nhân cảm động vì các vị thuộc Thánh Hiền Đường quyết chí không ngừng nên mới được phú cho mệnh lớn tới mức đó, hy vọng chư vị giữ bền được lòng tin, thay Trời giáo hoá. Đồng thời ra lệnh cho các cửa điện chốn U Minh, nếu như mõi khi Du Sinh tới phải mỡ cửa nghênh tiếp, cùng hợp tác để tiện hoàn thành cuốn sách vàng ngọc này, nếu như cãi lệnh chắc chắn sẽ bị nghiêm trị chẳn tha. Kể từ ngày ban lệnh này, cứ mõi kỳ ngồi đồng là dạo Địa Ngục viết sách cho tới khi nào xong mới thôi. Chư vị đã thay trời thi hành mệnh lệnh. ngày nào sách viết xong sẽ luận công tưỡng thưởng cho, chớ có trái lời. Đó là linh của Trẫm".

Kính vâng không sao lãng. Cúi đầu tạ ơn vận Trời ngày rằm tháng 8 năm bính Thìn 1976.

THÁI THỰƠNG VÔ CỰC HỖN NGUYÊN GIÁO CHỦ
NGUYÊN THUỶ THIÊN TÔN


Giáng


Thơ:

Nhân sinh như mộng độ quang âm
Uổng tự hồi tài dữ tịch âm
Thanh sắc dĩ tương thiên địa tính
Tịnh thần hựu trực lợi danh tâm
Ái hà phiêu lãng đầu nan xuất
Hoả trạch tiên giao nghiệp tiệm thâm
Mạc khả nhất sinh hư quá liễu
Hung dung ưng cải tự Quan Âm.


Dịch:

Kiếp người mộng ảo tựa thời gian
Uổng cả vàng tham lẫn bạc ham
Thanh sắc vùi chôn trời dất tánh
Tinh thần đeo đuổi lợi danh tâm
Sông yêu ngụp lặn đầu khôn cất
Nhà lửa nấu nung nghiệp khó an
Chớ để đời mình lầm lỗi mãi
Xấu xa sửa đổi giống Quan Âm.



ĐỀ TỰA

Nhớ thuở hỗn mang trời đất chưa chia, vũ trụ còn chung một khí, ban đầu hút khí từ vô cực, tiêu dao tự tại. Tới khi trời đất mở mang, nhờ chân khí của trung ương con người giáng sinh. Ban đầu tính nó thiện nên lúc chết dể trở về nơi chất phác ban đầu. Nhưng rồi bụi đất ngày càng phủ dầy nên tính thiện đã bị thay thế bằng tính ác, bởi vậy Trời bèn thiết lập địa ngục để làm chốn hối cải cho thanh tịnh lại . Bởi căn tính của chúng sinh bị ô nhiễm biến chất nên ngày càng truỵ lạc, gần đây trở thành quá bại hoại, khiến địa ngục đông nghẹt chúng sinh. Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy không nỡ để cho loài người đoạ trầm hơn nữa, mới toả ánh linh quang cho tiết lộ những hình phạt ghê gớm dưới địa ngục để cảnh cáo người đời hầu tránh không đạp lên vết bánh xe đó nữa mới mong trở về được nguồn cội, dứt nghiệp khổ đau luân hồi.

Vì Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trong những năm qua đã vâng theo lòng trời phát huy cơ bút siển dương đạo giáo, có công khuyên đời dạy người, tôn chỉ chính đáng hoà nhã, ra công hoằng đạo nên nay được nhận sắc chỉ của Ngọc Hoàng Thượng Đế đảm nhiệm trọng trách nặng nề dạo chốn địa ngục viết sách. Ra lệnh cho Phật Sống Tế Công hướng dẫn hồn phách Dương Thiện Sinh thân hành xuống âm phủ, vào ngục thăm dò để nắm vững bằng chứng, và do đồng tử của Ngọc Hoàng Thái Hư phò bút, dùng mắt pháp chân truyền chụp lấy các cảnh tượng ở cõi âm ty rồi đem những hình ảnh đó vào sách để tạo thành cuốn Địa Ngục Du Ký bày tỏ hết những bí mật của âm ty, những sự thật kỳ thế gian không thấy được, không tưởng tượng nổi.

Phí mất hai năm, tới nay sách xong, người đời nếu chăm đọc sách này, mau tỉnh thức hồi tâm, bỏ ác làm thiện, khuyên đi theo ngã thiên đường, người người như vậy hẳn là địa ngục trống không, hết thảy về với cực lạc, nội dung sách này mang nhiều ấn chứng, phù hợp với phép tắc trần gian, là một thánh điển cứu đời, thần thánh chẳng thể xâm phạm, hy vọng người đọc phát tâm truyền bá rộng rãi để giáo hoá, cùng phiên dịch phát hành sâu rộng, phàm có sự yêu cầu nên hưởng ứng tích cực, những ai có lòng hẵn rõ điều tốt lành là như vậy. Đồng thời cũng là lời tựa.

Nguyên Thuỷ Thiên Tôn giáng cơ bài tựa tại Thánh Hiền Đường ở Đài Trung.
Vận Trời ngày 13 tháng tư năm Mậu Ngọ (1978)


GIÁO CHỦ CÕI U MINH BỒ TÁT ĐỊA TẠNG VƯƠNG

Giáng


ĐỀ TỰA

Ôi! Thiên Đường có lối, người tới vắng vẻ; địa ngục không cửa người đến đông nghẹt . Người đời không kham vắng lặng, khó khứng yên tịnh, theo nóng dựa mạnh, chìm đắm trong chốn tửu sắc, nước xoáy, biển khổ mênh mông, biết bao kẻ trượt chân té sấp, khiến địa ngục đầy người, tiếng khóc than rung chuyển trời xanh! Ta chủ cai quản mười điện địa ngục, mắt thấy tai nghe lời than vang dội khắp, lòng nào chịu thấu!

Ba giới chúng sinh, nguyên khí chung dòng, từ vô thuỷ tới nay đều do lòng dục tham cầu không dứt mà sinh tử nối nhau. Than vòng luân hồi khổ hải, nhà lửa thiêu đốt! Nguyện dẹp địa ngục nhưng tiếc không một ngày nào độ hết chúng sinh. Ngọc Đế lòng từ vô lượng, thương xót hài nhi, nên ban sắc lệnh cho Thánh Hiền Đường ở Đài Trung viết sách Địa Ngục Du Ký, Tế Phật hướng dẫn Dương Thiện Sinh dạo âm phủ. Chốn nào đi tới các ty ở coĩ âm đều phải nghênh tiếp khoản đải, Minh Vương và các Ngục Quan phải đàm đạo trình bày, trải khắp nẻo tối mênh mang mới đủ kinh nghiêm viết thành thiên du ký, quí như vàng ngọc, giáo huấn mẫu mực. Phàm bọn tâm ngu lý tối coi thường coi khinh, quả báo như bóng theo hình. Ấn chứng trong sách dồi dào dễ dàng khảo sát chứng nghiệm, kẻ nghiên cứu sách này giải toả hoài nghi, sợ hãi bừng tỉnh canh thâu, sám hối, hành động quang minh, sau khi chết được miễn đày xuống địa ngục để cho âm binh nhục mạ trừng phạt. Nếu kẻ nào coi lời nói của ta như gió xuân thổi qua tai ngựa thì đó vô phương kêu cứu, chớ oán Tiên Phật vô tình. Đúng lúc sách Địa Ngục Du Ký lên khuôn thì ta có mặt ở Thánh Hiền Đường nên thuật ít lời, mong sách này lúc chào đời độ được hết thảy chúng sinh, địa ngục sớm trống không, cõi ta bà biến thành vườn lạc thú, mong lắm thay.

Bồ Tát Địa Tạng Vương giáng cơ bút tại Thánh Hiền Đường Đài Trung
Vận Trời ngày 13 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1978)



CHỦ TỊCH CỦA BẢN ĐƯỜNG LÀ HỌ QUAN ĐĂNG ĐÀI


ĐỀ TỰA

Bản đường thành lập Thánh Hiền Đường là để mỡ mang đạo giáo, phát huy cơ bút, phát hành kinh sách dạy điều thiện đã gặt hái được nhiều kết quả lớn lao trong việc giáo dục chúng sinh, chận đứng làn sóng dữ, ngăn xã hội đồi phong bại tục đang đà xuống dốc.

Tuy một năm qua đã in nhiều sách thiện khuyên răn hướng dẫn lòng người, nhưng hiềm nỗi còn nhiều kẻ vẫn sống sa đoạ, ngoan cố không chịu cải tà qui chánh. Ngọc Hoàng Thượng Đế rất xúc động trước cảnh tượng này nên cho mở hội Linh Tiêu, và hội nghị đã đồng thành quyết định chọn một đàn trường tinh thần chân chính, có cơ duyên tốt đẹp cùng Thần Thánh, có nhân duyên hoà hoả cùng chúng sinh, nhất là đàn cơ ấy đã từng có nhiều dịp ứng nghiệm thiêng liêng để tiện cho việc xuất hồn dạo cõi âm ty viết sách, đem chuyện thực của âm phủ mà tiết lộ ở thế gian để cảnh tỉnh giáo hoá người đời.

May mắn được lựa chọn, bản đường rất lấy làm vinh dự với chức này, ngay lúc đó tôi lo lắng muôn phần, vì việc dạo âm phủ không thể so sánh với việc thờ phượng cơ bút cùng siển dương đạo giáo, muôn một nếu như việc phụ đồng có sai trật, tâm trí Dương Sinh bị thác loạn thì quả là một sớm đem chuyện đại sự phá huỷ đi, tội nghịch quá nặng, Trời người đều khiếp hãi. Tuy nhiên lênh. Trời khó cững, kính cẫn vâng lời thánh dạy ngày rằm tháng tám năm bính Thìn (1976) toàn thể môn đệ của Thánh Hiền Đường kính cẩn nghinh đón sắc chỉ. Mỗi kỳ hầu bóng xuất hồn đều tỉnh tâm hộp ma9.t đông đủ tại bản đường, Dương Sinh ăn chay giữ gìn trai giới đợi chờ.... Khi Tế Phật tới, ngài liền hướng dẫn linh hồn Dương Sinh dạo địa ngục quan sát. Đồng Tử Ngọc Hư giữ điện truyền chân, đối đáp với Phật và người, đàm thoại với âm ti, nhất là vung bút viết tài liệu để làm sách Địa Ngục Du Ký.

Sau hai năm như vậy mới dạo hết các cửa địa ngục và thảo xong sách, giờ dây nhìn lại lòng tôi vô cùng kinh hãi. Kể từ khi bản đường phát huy cơ bút siển dương dạo giáo tới nay đã phí rất nhiều thời gian giờ đây mới thực hiện nổi cuốn sách phi phàm này, nội dung của nó hết sức trung thực, quả là sách khuyên thiện thế gian rất linh nghiệm, rất quý giá. Sách này vừa ra đời, địa ngục tối tăm liền phóng hào quang, nguyên phổ độ chúng sinh dưới gầm trời, có duyên đọc được sách này đều thoát khỏi bể khổ mà lên thiên đường.

Bản đường Chủ tịch Quan Hưng Phu Tử kính cẩn đề tựa
Vận Trời ngày 13 tháng 4 năm Mậu Ngọ 1978)




CHỦ BÍ KIM KHUYẾT LÀ HỌ LẠC

Giáng


PHÀM LỆ

1. Sách này phủng sắc chỉ của Ngọc Hoàng mà sáng tác, văn tuy thô thiển nhưng hàm chứa chân lý sâu xa, qủa là pho sánh quí để tu thân ngộ đạo, cùng cảm hoá người đơi

2. Trong sách nếu như chữ nghĩa không đựơc Văn hoa gì bởi cốt diễn tả sự việc sao cho trung thuật, xin đọc giã chớ coi thưởng

3. Sách này đã vắt cạn tâm huyết của Thần va Người sau 2 năm mới thành được tác phẩm lớn nội dung toàn thể cuốn sách đã tiếc lộ hết những bí mật, làm sáng tõ luật lệ cùng hình phạt ở coi Âm, đê dóng những hồi chuông cảnh tỉnh cứu đời, vạn thuở khó gặp được một lần, mong người đời đọc nó, quí nó, ngộ nó, tu nó.

4. Sách này lại do các ty Thiên Tào, Địa Tào, Nhân Tào hợp tác mà thành nên cũng được huân công, bởi vậy in tặng một bản thì cả Tam Tào đều cảm kích.

5. Kim Khuyết Thánh dạy: phàm những ai in tặng sách này để cứu nhân độ thế, chẳng kể tự in, giúp in, khuyên in, giảng giải, phổ biến đều được giảm bớt tội ở thế gian, nếu như công đức sâu dày sẽ được thăng Thiên tiêu dao tiên cảnh.

6. Phàm cầu thọ, cầu công danh, cầu khỏi bệnh, mong tiêu oan nghiệp, cầu công quả để chuộc tội tình, cầu tổ tiên được siêu thăng, cầu ssược phước sâu dầy, nếu phát nguyện in tặng sách này thì đều được như ý. Phàm cầu xin điều gì thì nên thâp nhang van vái Táo Quân ở trong nhà, bàn ông Thiên ở ngoài sân, Thần Thánh ở chốn miếu đình, chư thần sẽ tức khắc tâu về Trời được báo ứng liền, Thánh ý chắc chắn có thực.

7. Vì có Thần Thánh mười phương bảo hộ pháp cho nên chốn để sách phải cẩn thận, khi xem xong nên cất nơi thanh tịnh, không được làm ô uế, phàm những kẻ phỉ báng khinh khi, gây trở ngại cho việc phổ biến sách nầy sẽ vĩnh viễn đoạ địa ngục, tội ác chẳng thể tha. Hy vọng chúng sinh quay về đường thiện, suy nghĩ chính chắn rồi thi hành.





ĐỒNG TỬ NGỌC HƯ ĐĂNG ĐÀI



Thơ:

Thiên giáng kỳ thư tác chỉ nam
Âm ti thảm cảnh khởi hư đàm
Hồi đầu địa ngục nguyên vô lộ
Sám hối do như thanh xuân lam.


Dịch:

Sách lạ Trời ban hướng dẫn đường
Âm ti thảm cảnh há bàn xuông
Ăn năn âm phủ đâu còn ngã
Sám hối thiên đường hẳn được thăng.


ĐỀ TỰA


Người đời mãi mê hưởng thụ vật chất hữu hình mới nhận ra rằng tinh thần tu dững đạo đức giáo dục hiện bị sa đoạ, khiến những tội ác như trộm cướp, giết chóc, gian dâm ngày một gia tăng.

Muốn chặn đứng mối hoạ lớn lao, khai mở con đương giáo dục đạo đức, thuyết minh nhân quả báo ứng là có thực, linh hồn bất diệt chẳng sai, hoạ phước vốn không có cửa nó đều do thiện ác. Người ta nếu như lúc sống tạo nghiệp, sau khi chết linh hồn sẽ bị phiền luỵ, đày đoạ nẻo ác, nhồi trui luân hồi, đó là lý do tại sao có địa ngục.

Linh khí ta thuần thanh cho nên đắc pháp giới tiêu dao, nay Thánh Hiền Đường Đài Trung lãnh sắc mệnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế viết sách Địa Ngục Du Ký, ta may mắn được lãnh chức vụ "Pháp Nhãn Truyền Chân", không dám nghịch ý, mỗi khi gặp giá đồng trong đêm vắng, Tế Phật giáng lâm hướng dẫn hồn phách Dương Sinh dạo cõi u minh tham quan phỏng vấn các ngục, trong lúc Dương Sinh hỏi han các tội hồn, tức thì ta dùng pháp nhãn tiếp thâu thanh âm, hình ảnh truyền chân, nhấp . vào thể xác Dương Sinh, tay cầm bút giáng cơ tả rõ cảnh thực chốn âm ti nghi chép thành sách để cảnh tỉnh giáo hoá người đời.

Sự việc này thật là ảo diệu, bên cạnh có thiện nam tín nữ vây quanh xem xét, hưởng ứng xác nhận có thần thánh linh thiêng. Những kẻ mắt chưa nhìn thấy cnảh này thì làm sao tin nổi? Do đó ta thành thực mong chúng sinh hiểu tỏ thiên đường, địa ngục đều ở tại tâm, nếu như bỏ mất lương tri của mình hẳn tâm chẳng an sống tai thiên đường. Kẻ tâm chết mỗi khi tâm sống lại đều thống trách mình, lúc đó cảnh tượng địa ngục hiện rõ . Do đó địa ngục là nơi giam giữ kẻ phạm tội, chúng sinh không thể tham luyến, nhận lầm mình là quê quán, người do Trời sinh ra, thiên đường mới là chốn nhà xưa, tha thiết mong tránh khỏi chìm nổi giữa sóng tử sinh luân hồi mãi mãi.

Nay nhân sách Địa Ngục Du Ký đem ban bố khuyên đời, ta mượn ngôn bút giáng cơ nói ít lời. Những điều mắt thấy tai nghe một năm gần đây cảnh địa ngục thảm thiết vô cùng khiến hết còn muốn nhìn, hy vọng những ai xem xong sách này, từ nay về sau, nhất cử nhất động đều phải thanh bạch không được nhơ bẩn để tránh tiếp tục trở thành chủng tử của địa ngục mới khỏi phụ lòng ta đau đớn khổ não.

Cung Ngọc Hư đồng tử Ngọc Hư kính đề
Vận Trời ngày 13 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1978)

 

 

TỚI NÚI TÂM ĐẦU XEM HANG ĐỊA NGỤC

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 8 năm Bính Thìn (1976)

Thơ:
Thiên đường địa ngục tại tâm đầu
Thiện ác toàn bằng nhất niêm tu
Tế Phật kim tiêu sang dẫn đạo
Dương Sinh tuỳ ngã giá liên du.
Dịch:
Thiên đường địa ngục ở tâm ta
Thiện ác thảy nhờ quyết chí tu
Tế Phật đem nay nguyền dẫn lối
Dương Sinh theo gót cưỡi sen đi.

Tế Phật: Này Dương Sinh, đêm nay con cùng ta xuống địa ngục dạo chơi, con nghĩ sao?
Dương Sinh: Xin cúi đầu lạy ta ơn Trời Phật đã ban cho con dịp may xuống thăm âm phủ, lòng con tràn đầy hứng khởi.
Tế Phật: Thánh Hiền Đường thuộc cõi Nam Thiên, các đệ tử phải chăm tu đức nghiệp, quảng độ bến mê, phát hành nhiều kinh sách dạy điều thiện để người đời học hỏi cho đạo khí ngập tràn vũ trụ. Ngọc Hoàng đã đặc biệt ban sắc lệnh trước tác sách Địa Ngục Du Ký để nói rỏ về âm phủ. Những chốn quan trọng nầy Dương Sinh lại chưa từng đi đến. Vậy sau khi tỏ đường rõ lối, con phải thuật lại cặn kẻ cho người đời thấu hiểu . Trong thời gian con trao dồi ngọn bút giáng cơ, thầy đã chỉ dậy cho con rất nhiều, nhờ vậy mối duyên thầy trò giờ đây thật là bền chặt. Hôm nay chốn cao xanh lại sắp xếp cho chúng ta dạo xem địa ngục để viết sách, thầy rất lấy làm mừng, vì nhờ dịp may nầy mình mới bày tỏ được hết tấm lòng chân thành nồng nhiệt đối với việc cảnh tỉnh, giáo hoá người đời. Chắc chắn tâm lý hướng thượng rồi đây sẽ sống dậy mạnh mẽ trong lòng họ. Thôi chúng ta đi.
Dương Sinh: Cảm tạ những điều thầy vừa chỉ giáo. Con thường nghe người ta nói, dạo địa ngục đều phải cỡi ngựa thần hoặc ngự đài sen. Sao thầy lại bảo con đi?
Tế Phật: Này Dương Sinh, con quá thiệt thà, đường địa ngục làm sao đi bộ! Há con nghĩ đè mây lướt khói được nữa hay sao? Xã hội khoa học tiến bộ ngày nay, ra ngoài có xe hơi, xe máy dầu thay cho đi bộ, con cũng tưởng dùng được những phương tiên đó nữa chẳng? Sự thực thì địa ngục không có cửa, mọi người phải tự mình đi tới, ngoài ra chỉ là mộng đó thôi. Kiên nhẫn đi hết đường đạo gian nan, mới mong tới được thiên đường.
Dương Sinh: Con thấy hình như đêm nay ân sư uống rượu?
Tế Phật: Đúng ta có uống vài chén, nhân vì thấy rõ tình đời, lòng người thật đáng sợ, độ họ khó quá. Nghĩ vậy lòng ta đau buồn nên chỉ còn cách mượn rượu để giải sầu. Thầy biết con cũng thích rượu, hãy uống một chén cho say luôn tới âm ti.
Dương Sinh: Con không biết uống rượu. Ân sư thật khéo chọc cười.
Tế Phật: Hay quá, thời giờ gắp gáp, thầy hoá phép cho một bông sen nở, để thầy trò mình cùng cưỡi nha .
Dương Sinh: Phật pháp của ân sư thật quả vô biên, miệng niệm chân chôn, tức thì một đoá sen trắng nở ra. Nhưng bạch thầy chân con khôngách, con không dám bước lên đài sen.
Tế Phật: Tâm con cũng như lời con vừa nói đều tinh khiết, nhưng dầu chân con không sạch cũng chẳng quan hệ gì. Tục ngữ có nói về hoa sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Dương Sinh: Thầy dậy như vậy con mới dám thử, con đã sẳn sàng rồi, nhưng thưa đi hướng nào?
Tế Phật: Con nhắm mắt lại, ta chỉ đường cho, là đi tới ngay.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh.
Tế Phật: Con có thể mở mắt ra.
Dương Sinh: Thưa thầy đây à chốn nào ? Tại sao trước mắt có toà núi cao, trên vách đá con thầy đề ba chữ "Tâm Đầu Sơn", ánh vàng chiếu loà cả mắt con.
Tế Phật: Núi nầy tên là núi"Tâm Đầu", leo tới đỉnh là cửa lên thiên đàng, nhìn xuống sườn núi thấy một cái động đen ngòm, không đáy, đó là hang "Địa Ngục". Sau khi chết, kẻ hành động quang minh chính đại tới đỉnh núi lên thiên đường, kẻ làm chuyện tối tăm mờ ám, đi đến đây nhìn thấy ba chữ "Núi Tâm Đầu" hoa mắt, chóng mặt rồi bất tỉnh rớt xuống hố sâu địa ngục. Bởi vậy thánh hiền đời xưa, đã căn cứ vào đoá mà chỉ dạy rằng: "Tâm khả tố thiên đường, tâm khả tố địa ngục" (Tâm có thể tạo thiên đường, tâm có thể tạo địa ngục).
Dương Sinh: Như vậy thiên đường hay địa ngục là bởi người tao ra, Tiên do người làm nên, ma quỉ cũng do người làm nên.
Tế Phật: Đêm nay thời gian eo hẹp, tạm ngừng lại ở đây. Chưẩn bị trở lại Hiền Đường, mâu lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa vâng.
Tế Phật: Mau nhắm mắt lại, nếu mở, gặp gió âm lùa thổi mắt trần khó chống cự nổi.
Dương Sinh: Thưa đúng, thưa đúng, sức gió quá mạnh, con chịu không nổi...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

 

Tế Phật:  Đó là Thiên Tuế cùng quan viên phủ này, mau tới trước chào ra mắt.
Dương Sinh:  Kính lạy Thiên Tuế cùng chư vị Tiên Quan.
Thiên Tuế: Miễn lễ, mau đứng dậy, hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiên Sinh thuộc Thánh Hioền Đường đã quá bộ xuống thăm bản phủ.
Tế Phật:  Bữa nay tôi dẫn Dương Thiện Sinh là môn sinh của Thánh Đế tại Thánh Hiền Đường, ở Côn Đảo thuộc Đài Trung trên dương gian, tới quí phủ tham quan. Xin Thiên Tuế chỉ giáo nhiều cho.
Thiên Tuế:  Được được, mời hai vị theo tôi vào trong ngục nghỉ ngơi.
Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuê đã tiếp đãi quá nồng hậu.
Thiên Tuế:  Mời hai vị ngồi, tướng quân mau dâng trà.
Dương Sinh:  Nơi đây tiêu điều, tất cả đều cảm thấy hoang vắng, xin Thiên Tuế chỉ giáo nhiều cho.
Thiên Tuế:  Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật này, người đời rất ít kẻ biết, còn trường hợp quí Hiền Đường vì phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, có lệnh đặc biết của Ngọc Hoàng nên Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật phải mở cửa để quí vị vào tham quan. Quả thực đó là hành động náo loạn cõi Trời.
Dương Sinh:  Cảm tạ thiên ân thánh đức, xin Thiên Tuế chỉ giáo cho.
Thiên Tuế:  Tôi cai quản phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật này, làm chức Thiên Tuế vì bốn loài sinh vật nay nhừ loài rùa, sống tới 1.000 năm, do đó bản phủ lấy cái tên Thiên Tuế mà xưng hô, không gọi Diêm Vương. Phàm lúc sống tội ác quá nhiều, sau khi bị đày đoạ ở Thập Điện xong còn bị phán đày tiếp trong lục đạo thuộc hàng bốn loài sinh vật luân hồi, giáng thế bèn thay đầu đổi mặt, làm mất đi cái hình thể người quí báu. Tứ sinh chia ra làm thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh. Bốn loài; thai sinh là cấp một, noãn sinh là cấp hai, thấp sinh là cấp ba, hoá sinh là cấp bốn. Vì nặng nghiệp cho nên phải đầu thai dương thế để nhận quả báo. Khi bốn loài này chết đi, loại thai sinh, noãn sinh hồn phách giống người nên linh hồn toàn vẹn. Thấp sinh, hoá sinh nghiệp quả nặng, hồn phách bị tan rã. Bởi vậy hai loại này khó mà hoàn hồn, phải đợi toàn thể hồn linh tập hợp lại, hoàn chỉnh đâu đó xong xuôi, khi ấy mới phục hồi nhân thân được.
Tế Phật:  Đã tới giờ rồi, thầy trò tôi phải trở về Hiền Đường, lần khác lại xin tới làm rộn nhiều hơn nữa.
Dương Sinh:  Được nghe lời chỉ giáo quả là sung sướng, xin tạm biệt, đa tạ Thiên Tuế đã chỉ vẽ cho. Chúng tôi cần phải trở lại Hiền Đường.
Thiên Tuế:  Có điều chi khiếm lễ xin rộng lòng tha thứ. Lần tới xin trở lại thăm bản phủ.
Tế Phật:  Dương Sinh mau rời phủ, sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Thiên Tuế:  Xin tiễn chào.
Tế Phật:  Cảm tạ lời vàng ngọc của Thiên Tuế. Xin được bao dong che chở.
Thiên Tuế:  Chớ quá lẽ độ. Vì giờ trở lại Hiền Đường của Dương Sinh đã tới, tôi không tiện lưu giữ.
Tế Phật:  Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin thầy trở lại Hiền Đường....
Tế Phật:  Thánh Hiền Đường đã tới, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI HAI MƯƠI
 LẠI DẠO PHỦ HOÀN HỒN BỐN LOÀI SINH VẬT
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 29 tháng 11 năm Bính Thìn (1976)
 Thơ:
Thiên lý chiêu chiêu thùy thuyết vô
Nhân duyên cá dị biệt hình khu
Tu lòng lục đạo khai tân lộ
Mạc học thiên tiền kết võng thù.
Dịch:
Lẽ trời vằng vặc chẳng nên bàn
Khác biệt căn duyên khác biệt thân
Sáu ngã tối tăm tìm ngã mới
Đừng giăng lưới nhện trước thềm hiên.

Tế Phật:  Ai nói đạo trời không có báo ứng ? Hãy nhìn bốn loài động vật trâu ngựa, gà vịt, cá tôm, côn trùng, nhân duyên kiếp trước bất đồng cho nên kiếp này hình dáng cũng khác nhau. Người đời là loại chúng sanh cao quí nhất nên được coi là loại có tính linh trong muôn loài, cho nên phải biết quí trọng thân mình, mau tầm đạo tu đức, để tránh khỏi phải bị đầu thai làm một trong bốn loài động vật, mỗi loài phải giữ một bổn phận để tiêu tan các nghiệp báo chất chứa. Từ trong đường súc sanh mở ra một luồng ánh sáng để sớm tới kỳ phục hoàn nhân thân, đừng giống như con nhện trước rèm, tự tạo ra cái lưới mê lầm để rồi bị khốn đốn trong đó, suốt đời bị trói buộc không thoát ra nổi. Dương Sinh sửa soạn dạo địa ngục.
Dương Sinh:  Tuân lệnh, con đã sẵn sàng...
Tế Phật:  Đã tới, phía trước Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật, thấy Thiên Tuế cùng quan viên đã chờ sẵn nơi cửa phủ để nghinh tiếp chúng ta.
Dương Sinh:  Bái kiến Thiên Tuê chùng chư vị Tiên Quan, bữa nay thầy trò chúng tôi lại tới quấy rầy, xin chỉ giáo nhiều cho.
Thiên Tuế:  Chớ lễ độ quá mức, bữa trước chưa được đầm luận nhiều, bữa nay mừng đón Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh lại quá bộ tới thăm. Mời vào trong nghỉ ngơi, đi đường xa chắc là mệt mỏi lắm.
Dương Sinh:  Không cảm thấy khổ cực chút nào, khi ngồi đài sen chỉ nghe tiếng gió thổi mà thôi.
Tế Phật:  Chúng ta theo Thiên Tuế vào trong phủ nghỉ ngơi một lát.
Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuê đã tiếp đãi trọng thể.
Thiên Tuế:  Mời uống trà, xin chớ khách sáo.
Dương Sinh:  Bản đường phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, do tôi đảm nhiệm việc dạo âm ti, biết là hết sức vinh dự, nhưng còn nông cạn về đạo học, tình hình ở Minh phủ hầu hết lại chưa tỏ tường. Vậy xin Thiên Tuế chỉ cho tôi biết thêm về tình trạng hiện thời của Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật, hầu người đời biết rõ mà tránh phạm phải những lỗi lầm.
Thiên Tuế:  Tôi đích thân dẫn Dương Sinh đi thăm sân hành  hình, cùng ở bên cạnh giải thích cặn kẽ, như vậy hẳn là sẽ hiểu rành mạch.
Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuế.
Thiên Tuế:  Dương Sinh hãy theo tôi tới chính điện.
Dương Sinh:  Tuân lệnh. Kìa! Con nai rừng kia tại sao lại đón đường chào Thiên Tuế, hình như nó có điều chi muốn nói?
Thiên Tuế:  Đúng đấy, con nai này kiếp trước là đệ tử của Phật, nhưng vì thân nhuộm trọng bệnh, sinh lòng oán ghét Phật Tổ vì đã không  bảo bọc, bèn bỏ chạy phá giới, phản tục hoàn trần, lập gia đình đẻ con, nhưng vẫn còn huỷ báng Thần Phật . Sau khi chết phải đầu thai làm thân nai. Lần này là lần luân hồi thứ ba, nai được sanh tại núi sâu, ăn cỏ xanh, uống nước suối, suốt đời chịu khổ vì gió sương, để trả nghiệp kiếp trước. Ở chốn non sâu, ăn cỏ, uống sương sống như một vị đạo sĩ tu hành, đó gọi là nhân quả báo ứng. Hiện nay con nai đã hoàn toàn trả xong nghiệp báo, bị âm khí dắt đến điện địa phủ, nghiêng đầu làm lễ là ý muốn nhờ ta giải cứu, để phục hồi nhân thân.
Dương Sinh:  Một niệm nghĩ sai, bèn bị ác báo, âm luật khó thoát, thiệt là đáng sợ. Nhưng tôi còn có điều chưa rõ, bốn loài sinh vật, sau khi chết đi tại sao lại tự nhiên bị âm sai dắt xuống âm phủ, lẽ đó là thế nào vậy?
Thiên Tuế:  Tôi xin thưa rõ là: Thiên địa tạo hoá hoàn toàn do một khí vận hành, cho nên trong đạo giáo có thuyết "Nhất khí hoá tam thanh" (một khí hoá ba trong), kỳ thực không phải một khí chỉ hoá được ba trong, mà một khí có thể hoá muôn ngàn. Trời có thiên khí, dất có địa khí, người có nhân khí; trời đất người không lúc nào không một thở ra, một hút vào. Nếu như thiên khí dứt tuyệt, trời ắt sa xuống; địa khí dứt tuyệt, đất ắt sụp đổ; nhân khí dứt tuyệt, người hẳn chết queo. Cái điển chân khí này tức là tâm khí . Gần đây khoa học gia ở dương gian mới chỉ khám phá được cái gọi là "Địa tâm dẫn lực", nhưng còn mấy cái lực khác mà họ chưa biết đó là "Thiên tâm dẫn lực" và "Nhân tâm dẫn lực". Cái gì đục thì ngưng động xuống dưới làm đất, đó là do "Địa  tâm dẫn lực". Tính dục động, đó là "Nhân tâm dẫn lực". Ba loại dẫn lực này tạo thành tất cả các hiện tượng, các vật chất trong thế giới. Như trong bốn loại thai sinh, noãn sinh, thấp sinh,và hoá sinh đều do kiếp trước nghiệp trần sâu nặng, sau khi chết đều bị địa tâm hấp dẫn, tự động đoạ địa ngục để Diêm Vương phán xét. Nếu như có kẻ nào tu hành, một điểm tính linh trong nhẹ tự nhiên bay lên trời, âm binh muốn bắt giải xuống âm phủ cũng không được, Giống như một khinh khí cầu chứa đầy hơi, bay lên trong không trung, muốn kéo lại, ắt bị káo theo luôn.
Cho nên người đời thành Tiên Phật hay thành ma quỉ đều do kiếp trước tu hay không tu. Còn nếu muốn siêu độ linh hồn tổ tiên thì phải tạo công đức hiện tai, nếu không sẽ tốn ngàn vàng mà vô ích. Kẻ muốn siêu độ tổ tiên trừ việc lo tu hành bản thân ra, nên ấn tống kinh sách để dạy điều thiện mới là công đức lớn nhất. Bởi Tiên Phật lấy việc xuất thế, độ người thoát khổ làm đại nguyện, thì kinh sách dạy điều thiện là tiếng lòng của Tiên Phật, cốt yếu giúp người đời tu tâm dưỡng tính, cho nên phổ biến kinh điển, ấn tống sách dạy điều thiện chính là phù ho9.p với lòng của Tiên Phật, công đức đó lớn vô cùng, lấy công đức đó mà hồi hướng cho linh hồn tổ tiên, thì tổ tiên thoát khổ mau lẹ nhất. Như muốn tụng kinh siêu độ cũng phải có kinh sách làm bằng, điểm đó người đời không thể không biết. Ngoài ra, giúp kẻ nghèo thương kẻ khổ, công đức đó cũng đủ làm nên thiện nghiệp.

HỒI THỨ HAI
CHƠI AO THANH TÂM DẠO CÕI ÂM DƯƠNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 8 năm Bính Thìn (1976)

Thơ:
Tiên thiên nhất lập bảo quang châu
Trụy lạc hồng trần nê ố đồ
Khán phá phàm khu thành Phật thể
Thuần khai pháp nhãn chiếu chân ngô.
Dịch:
Tiền thân ngọc sáng quí vô vàn
Rớt xuống bùn nhơ cõi thế gian
Thấy được thân phàm ra thân Phật
Thầy nhờ mắt huệ ngó chân tâm.

Tế Phật: Này Dương Sinh, sửa soạn dạo địa ngục.
Dương Sinh: Bạch thầy để bữa khác, bữa nay con mới vừa đi Chương Hoá về, tinh thần quá mỏi mệt, con chỉ muốn ngủ một giấc cho khoẻ.
Tế Phật: Con lười biếng quá, là kẻ tu đạo mà vừa mới trải chút phong sương đã sợ khổ, thì làm sao con có đại khí nổi!
Dương Sinh: Bạch thầy, con quả có lỗi lớn, xin thầy tha thứ, con nguyện theo thầy.
Tế Phật: Mau lên đài sen, hai mắt nhắm lại....rồi, mở mắt, xuống.
Dương Sinh: Bạch thầy, tại sao bữa nay thầy đem con tới chốn đây, trước mặt ao lớn nước trong suốt, phẳng như gương, phản chiếu bầu trờ xanh biếc. Chợt ba chữ "Ao Thanh Tâm" từ đáy nước hiện ra.
Tế Phật: Hôm trước con dạo cõi âm, vì thân phàm mắt tục, do đó không nhìn thấy hết mọi vật. Bữa nay thầy đưa con đến đây để con có dịp xuống áo nầy tắm gội cho sạch bụi nhơ, tự nhiên mắt trần sẽ hoá thành mắt tuệ, con mới có thể cùng thầy ngắm cảnh âm ti.
Dương Sinh: Bạch thầy con không dám xuống, vì bây giờ là mùa thua, nước ao này giá buốt vô cùng, lỡ con cảm lạnh thì nguy lắm.
Tế Phật: Muốn dạo cõi âm còn sợ lạnh, ta đẩy mi cho té xuống .
Dương Sinh: Cứu con, cứu con....con không biết lội....thầy nỡ giết con sao....ối, ối, ối, ối, ối.....
Tế Phật: Ta dìm con vài phút cho tỉnh táo.
Thủ Trì Tướng Quân (Tướng Quân giữ ao): Bái lạy Phật Sống Tế Công, tội thực vô lễ vì đã không chuẩn bị châu đáo nghênh tiếp ngài, xin ngài thứ lỗi. Vừa rồi Phật Sống đẩy một kẻ phàm xuống ao, không rõ ngài có dụng ý gì?
Tế Phật: Tướng Quân, người chưa rõ, thế nhân hiện giờ đang sống mê chết muội, bụi bám đầy mình chôn vùi mất cái tính linh sáng suốt của thuở chưa đầu thai. Ta bữa nay đẩy kẻ phàm này xuống ao, là muốn rửa sạch viên ngọc quí Mâu Ni bị bao phủ đất bùn, để cho nó lại toả chiếu sáng ngời.
Tướng Quân: Hay lắm, nhưng ngài hãy cho phép tôi vớt hắn lên, sợ để lâu hết cứu nổi.
Tế Phật: Lẹ lẹ, kẻo hắn chìm xuống đáy hồ thì phiền lắm đó.
Tướng Quân: Lôi được lên rồi, nhưng hắn ngưng thở, Phật Sống cứu hắn cách nào?
Tế Phật: Không sao, đã rửa sạch đất bùn tự nhiên được cải tử hoàn sinh, ta dùng quạt bồ, quạt một cái là tỉnh lại ngay, hãy nhìn ta hoá phép...
Tướng Quân: Hắn tỉnh rồi, hai mắt đã mở.
Dương Sinh: Bạch thầy, cớ sao thầy đẩy con xuống ao?
Tế Phật: Người đời có tính thụ động lại thêm khách sáo. Ngọc của con còn nguyên khối lớn, thầy không nỡ để yên như vậy nên mới đem tẩy rửa.
Dương Sinh: Cảm tạ thầy đã chỉ dạy điều hay, giờ đây thân thể con mát mẻ khoẻ khoắn, cùng sảng khoái vô cùng. Còn thưa, vị mặc đồ võ tướng này là ai?
Tế Phật: Tướng Quân phụ trách việc giữ ao, nếu như kẻ không có sắc lệnh, không được phép xuống ao này tắm rửa . Nó cũng còn được gọi là ao Tiên, nên chỉ có ba giới Chân Tiên mới được phép tắm ao này, dân thường không thể tới đây. Còn con bữa nay thật là có phước.
Tướng Quân: Bẩm Phật SỐng, bửa nay ngài đưa kẻ phàm này tới đây là ngài có ý chi?
Tế Phật: Nhân vì Thánh Hiền Đường phụng mệnh trước tác sách Địa Ngục Du Ký, do đó ta mới đưa Dương Thiện Sinh đi coi âm phủ, song vì kẻ phàm trần chưa sạch tục khí, nên khó nhìn thấu cõi âm ti, bởi vậy ta phải đem hắn tới ao Thanh Tâm này rửa mắt, hầu lợi cho việc dạo xem địa ngục của hắn.
Tướng Quân: À ra thế, kinh quá, kinh quá.
Tế Phật: Từ giã Tướng Quân, thầy trò ta đi dạo âm ti, thì giờ quá eo hẹp, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Bạch thầy, bay giờ minh đi đâu?
Tế Phật: Chẳng cần hỏi, lúc đến nơi sẽ rõ, mau khép hai mắt lại....mở mắt ra được rồi...rời đài sen.
Dương Sinh: Con đường này tại sao không tráng nhựa, gió tung bụi mù trời, đi té lên té xuống.
Tế Phật: Đây chính là cửa ải nối biên giới giữa quỉ và người.
Dương Sinh: Ô, phía bên kia có nhiều người đang đi tới, miệng kêu khóc rên la.
Tế Phật: Đó là những linh hồn người chết, vừa mới đến cõi âm.
Dương Sinh: Bạch thầy, trước mắt có một tấm bảng trên đề ba chữ "Âm Dương Giới". Vậy thưa thầy đây là đâu?
Tế Phật: Đây là biên giới của hai cõi âm và dương.
Dương Sinh: Phía trước có hai toà lầu cao, mời thầy tới coi.
Tế Phật: Ừ ừ, minh đi mau.
Dương Sinh: Trên các cửa của hai toà lầu này đều thấy đề Giao Bộ Sảnh; đệ nhất khoá, đệ nhị khoá ...và có tất cả vào khoảng hơn mười phòng.
Tế Phật: Mình thử vào trong hỏi xem sao.
Giao Bộ Quan: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh, chủ đàn cơ Thánh Hiền Đường ở Đài Trung tới thăm. Bản sảnh đã nhận được sắc chỉ của Ngọc Hoàng từ ngày rằm tháng tám, nên được rõ quí Hiền Đường vì nhu cầu trước tác sách "Địa Ngục Du Ký", sẽ xuống âm ti quan sát tình hình.
Tế Phật: Thưa thời giờ đã trễ, bữa khác chúng tôi xin trở lại hầu chuyện.
Giao Bộ Quan: Thưa được, kính chào.
Tế Phật: Này Dương Sinh, chúng ta chuẩn bị trở lại Hiền Đường mau rời sảnh lầu lên dài sen. Nhắm chặt hai mắt lại.
Dương Sinh: Tuân lệnh ân sư.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

                                                                 

HỒI BA
DẠO CÕI ÂM DƯƠNG THĂM GIAO BỘ SẢNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 30 tháng 8 năm Bính Thìn (1976)

Thơ:
Phật hải vô ba tuyệt điểm trần
Tiên sơn hửu lộ vấn tâm lân
Kim Ô Ngọc Thố như hào chuyển Lục
Đạo phân phân cảm khái thân.

Dịch:
Biển Phật bình yên nước lắng trong
Non tiên sẵn lối hỏi ngay lòng
Vầng Ô bóng nguyệt như giao hảo
Sáu mối tơ vò hẳn gỡ xong.

Tế Phật: Này Dương Sinh, hãy chuẩn bị đi dạo âm ti.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, con đã lên đài sen, mắt nhắm lại rồi.
Tế Phật: Lên đường ...hay quá, xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa thầy, ngã đường này tại sao lại có một đám đông ồn ào náo nhiệt thế kia, là người dương thế họ xuống đây làm gì?
Tế Phật: Đây là biên giới giữa âm phủ với dương gian. Đám đông đó đều là những vong hồn vừa mới xuống âm ti nên đang trình báo. Chớ có hỏi nhiều, để ta đưa người tới thăm Giao Bổ Sảnh, xem xét Giao Bộ Quan. Những gì thắc mắc ngươi hỏi cho kỹ, đừng có ngại ngùng.
Giao Bộ Quan: Hoan nghênh Tế Phật va Dương Thiên Sinh tới thăm, xin mời vào sảnh đường. Bữa trước đoán tiếp không được nồng hậu, xin thứ lỗi cho. Mời ngồi, vì thời giờ eo hẹp, nên chưa báo cáo với các viên chức của bản sảnh được, không rõ Dương Thiện Sinh có chi thắc mắc không?
Dương Sinh: Xin cho biết biên giới giữa cõi âm và cõi dương là chỗ nào?
Giao Bộ Quan: Biên giới của cõi âm và cõi dương là chỗ dương gian và âm phủ tiếp giáp nhau, nhưng đây gần âm phủ hơn. Người đời sau khi chết phải tới đây trình sổ hộ tịch với bản sảnh đường. Sau khi đăng ký đàng hoàng rồi, kẻ thiện đức được phúc thần dẫn xuống âm phủ tham quan, kẻ ác đức bị thần quỉ Hắc Bạch dẫn tới quỉ môn quan, giao cho đệ nhất toà xử trị.
Dương Sinh: Có bao nhiêu sổ hộ tịch ghi tên tuổi người trần thế?
Giao Bộ Quan: Thế nhân có ba cuốn sổ hộ tịch . Nguyên tịch là sổ đầu tiên ở thiên đường, ghi chép những linh hồn thuở mới đầu thai, gọi là sổ gốc. Ký tịch là sổ ghi lúc còn tại thế. Phân tịch là sổ ghi ở âm phủ. Kẻ không làm điều phước ở thế gian, khi chết về cõi âm không được lên cõi trời. Địa ngục cũng giống như nhà giam ở cõi trần, là chỗ để trừng phạt kẻ phạm tội. Chốn đó không phải là chốn quê cha . Chỉ khi nào
cõi thế chăm lo tu đạo, chết mới có thể trở lại thiên đường là chốn nhà cũ quê xưa đích thực.
Dương Sinh: Người dương thế khi chết, bên chân họ thường thấy con cháu đốt giấy tiền, gọi là đốt giấy cước vĩ, thắp đèn dầu gọi là đốt đèn cước vĩ không hiểu có dụng ý gì?
Giao Bộ Quan: Người trần thế khi chết hồn phách thoát ly nhục thể, ban đầu tuy có âm binh dẫn đường song vẫn mơ mơ hồ hồ, lửng lơ, lãng đãng, khó có thể tự chủ. Cho nên người thân ở cõi trần sợ đường đi của tổ tiên ở cõi âm tối tăm mơmìt, do đó muốn cầu cho đường đi của tiền nhân thuận lợi, nên đốt giấy tiền là nghĩ rằng tiền nhân có thể dùng làm lộ phí, đốt đèn dầu nghĩ rằng đèn chiếu sáng được đường tối tăm. Việc làm này do lòng hiếu thảo của con cháu đối với người trên thật là chu đáo, đáng khen ngợi. Nhưng đường âm phu chẳng thể hối lộ, qua được hay không đều tự mình thôi . Lúc sống nếu như tâm địa đen tối, chỉ ỷ vào vài chén dầu, dăm ngọn bấc chắc chắn sẽ không cứu chuộc nổi.
Dương Sinh: Hiện thời dương gian khoa học phát đạt, cuộc sống được đề cao đúng mức, tổ tiên tạ thế, con cháu đời sau dùng giấy và hồ làm thành: nhà cao, TV mầu, quạt máy, xe hơi, xa lông, giường nệm mút hảo hạng cung cấp cho tổ tiên xài. Chẳng hiểu những món đó có tới được âm phủ để kẻ chết dùng không?
Giao Bộ Quan: Người trần thế quá ngay ngô, nghĩ ngợi thật thà chân chất, lúc sống không dùng những phương tiện đó cho thoả thích, xuống âm phủ đường xá nhỏ hẹp quanh co, đường đi có lắm vấn đề, nếu đi xe nhất định gây ra tai nạn, vả lại âm phủ không có trạm xăng, dùng xe hơi không thích dụng. Đến như mấy thứ quạt máy, giường nệm mút, sử dụng ở dương gian rất tốt, còn ở âm phủ đã chuẩn bị sẳn ván kê dưới đất để đón tiếp tội hồn khi lâm ngục. Ví bằng cầu cho được bình yên còn khó, huống nữa lại còn cầu hưởng thụ. Lúc sống cờ bạc rượu chè, không ác nghiệp nào là không phạm, khi xuống âm phủ đã bị nhốt vào ngục để thọ hình, lại còn muốn có những thứ đó để tiêu khiển, thì quả thực người đời hiện tại mộng hảo quá nhiều.
Dương Sinh: Thưa ân sư, hôm trước thầy dẫn con dạo địa ngục, thoạt tiên thấy núi Tâm Đầu, sao bây giờ lại là biên giới Âm Dương, con thấy quá mơ hồ?
Tế Phật: Con đi theo thầy, thầy chỉ cho con sẽ rõ. Này Giao Bộ Quan, thầy trò chúng tôi xin cáo từ.
Giao Bộ Quan: Thưa có điều chi sơ xuất, xin lượng thứ cho.
Tế Phật: Chớ khách sáo.
Dương Sinh: Cảm tạ Giao Bộ Quan đã chỉ dạy rõ bến mê, chúng tôi xin cáo biệt . Thưa ân sư, xin thầy chỉ dạy ngay cho con được rõ về núi Tâm Đầu cùng biên giới Âm Phủ Dương Gian như thầy đã hứa.
Tế Phật: Hôm trước thầy đã đưa con tới chốn này.
Dương Sinh: A, ba chữ Tâm Đầu Sơn hiện ra sáng rõ, cảnh sắc Âm Dương Giới tự nhiên biến mất.
Tế Phật: Núi Tâm Đầu cũng như biên giới Âm Phủ Dương Gian. Người cõi thế nếu như lúc sống chuyên làm đều ác, một sớm chết đi, bị âm binh áp giải tới đây, nhân vì tinh thần cũ không trong sạch, thấy ánh sáng chói ngời trên đỉnh núi, hai mắt khó mở, khuỵu chân rớt xuống hang không đáy nơi sườn núi Tâm Đầu. Hang không đáy ăn thông vớ Âm Dương Giới dưới âm phủ. Nếu là người tu đạo có đức lớn, nhờ công quả tròn đầy, linh hồn đi tới chốn nầy gặp được luồng sáng huy hoàng rực rở xuất hiện từ trên đỉnh núi đưa thẳng tới đường lớn nhà Trời. Rồi được Tiên Đông Ngọc Nữ nghênh đoán vào cưa nhà Trời. Nếu là hạng đức thiện ở bực trung và tiểu thì gặp được con đường rộng hai trượng, do Phúc thần dẫn tới Âm Dương Giới trình diện, rồi sau đem vào địa ngục điều tra. Lúc sống công đức nhiều được dẫn vao Chúng Thiện Sở hoặc nhờ có duyên Tiên Phật độ, được đem về các từng Trời tu luyện lại. Hôm nay thời giờ đã trể, chúng ta trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Thưa tuân lệnh, con đã lên dài sen.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập vào thể xác.
HỒI BỐN
QUA QUỶ MÔN QUAN NGHE PHÁP CỦA VẠN PHÁP TÔNG MÔN
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 26 tháng 8 năm Bính Thìn (1976)
 Thơ:
Nhất phiến tiên tâm độ hữu tình
Bồ đoàn vị toạ hạ hồng daonh
Thu phong bất giác đơn y lãnh
Viên nhiệt từ hoài vị chúng sinh.

Dịch:

Một tấm lòng tiên chan chứa tình
Giờ thiền chưa toạ đã băng mình
Gió thu áo mỏng quên thân lạnh
Sưởi ấm niềm thương bởi chúng sinh.

Tế Phật:  Bữa nay chuẩn bị dạo âm phủ, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Thưa vâng, con đã sẵn sàng, xin thầy khởi hành...
Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Phía trước có một cái thành, trên cửa đề ba chữ Quỷ Môn Quan, cửa ải quỉ là đây rồi, cớ sao cửa thành lại không mở, chỉ nghe tiếng động của nhiều thứ khí cụ va chạm ở bên trong.
Tế Phật:  Cửa Quỷ vốn không mở, người đời đều tự nhiên bước vào, ta dùng quạt bồ quạt một cái, tự nhiên nó mở liền.
Dương Sinh:  Thật hay quá, thầy phất nhẹ quạt Phật, cửa quỉ mở lớn ngay. Nếu như kẻ mới chết, không có quạt Phật, làm sao vào được cửa ải quỉ này.
Tế Phật:  Người chết làm quỷ, đi hết đường trần đến nơi đây, cửa ải quỷ tự nhiên khai thông. Cửa trần đóng, cửa quỷ mở, đó là lẻ kỳ diệu của tạo hoá âm dương. Đi lẹ lên, thầy đưa con tới coi nơi này. Đừng lo nghĩ vẫn vơ nữa.
Dương Sinh:  Xin vâng. Nhưng trong cửa ải quỷ tại sao lại đông đúc người ta quá vậy, y như một cái chợ, không rõ họ còn muốn đi đâu nữa đây?
Tế Phật:  Đó là các hồn quỷ đi thụ án ở mười cửa điện, âm binh đều làm nhiệm vụ dẫn đường, chúng ta hôm nay không cần sem xét kỹ việc này. Hãy mau theo ta.
Dương Sinh:  Dạ dạ, nhưng sao con đường này trắc trở chông chênh quá, và cuối cùng dẫn tới đâu đây?

 Tế Phật:  Con đi thêm hai dậm nữa thì rõ liền.
Dương Sinh:  Phía trước có một người đang bị âm binh dẫn đi như thế kia là tại sao vậy?
Tế Phật:  Người đó lúc còn sống là đạo sĩ của phái tu đồng thiếp, nhân vì chưa ngộ được chân lý, huỷ báng cá tôn giáo khác, cho nên bây giờ chết xuống âm ti phải chịu  hình phạt.
Dương Sinh:  Phía trước có một toà lầu, đề bốn chữ "Vạn Pháp Quy Tông" vậy đây là đâu?
Tế Phật:  Bởi nơi đây, hiện thời ngàn "môn" vạn "giáo" mọc lên như nấm, tín đồ không rõ chân lý, công kích lẫn nhau, làm mất ý nghĩa của đạo, nên phạm vào khẩu nghiệp, khi chết phải vào "Vạn Pháp Quy Tống để tu luyện lại. Phía trước có các thầy dạy đạo tới kìa. Dương Sinh mau đến vái lạy đi con.
Dương Sinh:  Xin cúi lạy quý thầy.
Tông Chủ:  Hoan nghênh Phật Sống Tế CÔng và thánh bút Dương Thiện Sinh từ Thánh Hiền Đường tới thăm. Chúng tôi đã sớm nhận được lệnh phải tiếp đoán quý vị, Miễn lễ, mời đứng vậy.
Tế Phật:  Hôm nay tôi dẫn Dương Sinh tới đây, nhờ Tông Chủ đưa đi thăm các nơi cùng giảng giải cho y hiểu.
Tông Chủ:  Xin chớ khách sáo, mời nhị vị vào trong sảnh. Mời ngồi.
Dương Sinh:  "Vạn Giáo Quy Tông" thật là có ý nghĩa, nhưng tôi chưa hiểu tường tận, mong Tông Chủ giảng rõ nghĩa cho.
Tông Chủ:  Thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: Nho, Đạo, Thích, Gia, Hồi có thể nói đó là các chính giáo nổi tiếng, nhưng nguồn gốc sâu xa của năm tôn giáo đó cũng xuất phát từ "Đạo". Từ thượng cổ vốn không có danh xưng "tôn giáo". Về sau Trời giáng xuống những bậc thánh triết, chia ra ở các nước, thay Trời mà lập ngôn, dạy người hành đạo theo phép của Trời, nhân loại vốn có cùng một tôn giáo, không hề chia rẽ. Nhân các giáo chủ về trời, môn đồ hiểu sai, phân chia nhiều ngã khác biệt, tạo ra cảnh các phe phái chống đối nhau. Họ không hiểu rằng trăm sông đổ về một biển, ngàn cửa đều thuộc một nhà, nên mới tranh giành không tương nhượng nhau, lập môn phái riêng, tự khen là tôn giáo mình cao siêu, dám nói là tôn giáo khác thấp kém . Do đó sau khi chết, linh hồn không thoát khỏi được khí số, rơi hết xuống đây. Ngọc Hoàng vì không nỡ để chúng sanh truỵ lạc, do đó mới mở pháp môn "Vạn Pháp Quy Tông" tại đây để dạy dỗ các tu sĩ u tối giác ngộ chân lý, rồi sau mới được siêu thăng.
Tế Phật:  Thưa, Tông Chủ nói rất có lý, nhưng Dương Sinh chưa rõ hết được điều kỳ diệ, chi bằng đưa hắn đi xem xét tại chỗ, đó chính là trăm nghe không bằng một thấy.
Tông Chủ:  Phải đấy, đi theo tôi.
Dương Sinh:  Phòng này rộng hàng mấy mẫu, bên trong giống như nhà giảng, ngồi đầy mấy vạn người, có đủ nhân sĩ các nước, hình như họ đang chuẩn bị nghe giảng.
Tông Chủ:  Chính phải, họ đang sửa soạn nghe giảng . Mời hai vị theo tôi ngồi nơi chiếu danh riêng cho quí khách ở phía trước để dự thính.
Dương Sinh:  Phòng học quá lớn, thật ít thấy ở cõi dương gian, bảng đen phía trước đề bốn chữ "Vạn Pháp Quy Tông", một vị giáo sư đầu trọc lóc bước lên bục giảng, hình như là một vị tỳ kheo, tất cả đứng dậy thi lễ xong bèn ngồi xuống.
Giáo Sư:  Hôm nay có ngài Dương Thiện Sinh từ Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trên dương thế xuống đây tham dự cuộc hội thảo với chúng ta, xin mọi người vỗ tay hoan nghênh.
Dương Sinh:  Bạch thầy, các nhân sĩ ở đây thuộc nhiều chủng tộc, làm cách nào họ có thể nghe hiểu được tiếng Trung Quốc.
Tế Phật:  Thế giới lớn rộng, tuy có nhiều giọng khác nhau, nhưng tín ngưỡng của họ không ngoài mục đích ký thác tinh thần. Do đó cùng một "tâm" tín ngưỡng này, mà sau khi chết bản tính của linh hồn sẽ thông suốt, không thể vì cớ chủng tộc mà cái "tâm" chúng đó phân chia, giống như nghe một tiếng sấm nổ, nhân sĩ khắp các nước điều hiểu là trời sắp đổ mưa. Nay chi cần nghe tiếng của Giáo Sư hẳn rõ được hết ý nghĩa. Y hệt Phật dùng một tiếng diễn giảng pháp, chúng sinh tuỳ loại đều giải được hết ý pháp của ngài. Thôi đừng hỏi nhiều, hãy nghe Giáo Sư giảng đạo.
Giáo Sư:  Người tuy vạn loài, nhưng tánh cùng một lẻ, sống thì khác đường, chết cũng quay về một chốn. Thế giới loài người có nhiều màu da khác nhau, nhưng đói thì biết ăn, tối thì biết ngủ, trời che đất chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu, mưa pháp thấm nhuần, đều được hưởng ơn trời đất. Có thể nói là cùng một "tâm" sống chỉ vì khác tín ngưỡng tôn giáo mà thành bài bác, công kích nhau. Cho đạo ta mới có thể lên thiên đàng, còn đạo khác thì xuống địa ngục, đem cái nguồn cội thông tròn đầy, tự do, tự tại của thiên đường xây thành lầu son gác tía ở giữa không trung, rồi tự giam hãm mình trong đó, chẳng khác nào chui vào lòng chim treo lơ lửng giữa trời, tự cho la cao thượng không gì sánh nổi, mừng mừng rỡ rỡ, đắc chí hót vang, đó là thứ địa ngục ở thiên đàng, tội nhân ở cõi trời, tât cả đều là những con chiên chờ cứu rỗi, lả những kẻ không được cứu chuộc. Các vị lúc còn tại thế đều nói lên thiên đường, nhưng hôm nay lại rớt xuống địa ngục, các vị đến âm phủ với nhục thể đấy phải không? Xác thân có các giống đen, trắng, vàng, áo mặc có in hoa cá màu đỏ vàng, xanh . Duy có cái "tâm" ban sơ chẳng thể nhuộm màu, nếu nuôi ý bài xích thì thiếu  cái "tâm" cùng tu và những tiếng từ bi, bác ái từ lời nói nào mà ra? Mặt trời, mặt trăng từng chiếu người thiện lẫn kẽ ác khắp cổ kim, không sinh "tấm phân biệt, đối đải nên mặt trời mặt trăng luôn sáng mãi, lưu mùi thơm vạn thuở . Các vị phải giác ngộ, tự chiếu sáng bản tính mình, đừng sinh lòng oán ghét, vì hiện giờ đang là thời kỳ phổ hoá "Vạn Pháp Quy Tông", mà quy tông tức là quy tâm. Kết hợp tâm của chúng sinh, lấy nhân ái đối xử với nhau, phát huy giúp đở lẫn nhau, tốt lành với nhau. Các tôn giáo phải mở lớn cửa, tuỳ duyên mà độ người, mặc dù không cùng giáo chủ, nhưng  tâm nguyện và mục tiêu lại cùng đường, hy vọng toàn nhân loại đồng quy Thiên Đạo, đem thế giới ta bà biến thành nước hoa sen hoan lạc. Giáo Chủ vốn chỉ cứu được tâm tính và linh hồn, chẳng thể cứu nổi xác thân. Do đó phát hiện được thực tướng của nội tâm mới có thể giải thoát sống đời tự tại. Chỉ có như vậy mới mong hoàn thành được thế hoại đại đồng, để mỗi người có thể trở thành Tiên Phật, khả dĩ làm thánh hiền. Còn như phản bội đường lối này, ắt trở lại kiếp luân hồi...
Tế Phật:  Đã tới giờ, hướng về phía vị Tông Chủ từ giả, có duyên còn gặp lại . Dương Sinh mau bái tạ để trở về.
Dương Sinh:  Thưa Tông Chủ, thật là khiếm khuyết, vì thời giờ đã trễ, phải mau trở về Thánh Hiền Đường, bỏ dở cuộc họp nửa chừng thật quả là thất lễ, xin rộng lòng tha thứ.
Tông Chủ:  Không sao, chúng tôi xin đưa tiễn.
Tế Phật:  Dương Sinh mau lên đài sen, hôm nay nghe thuyết pháp cảm tưởng cua con ra sao?
Dương Sinh:  Vị Giáo Sư đó giảng rất rõ lẽ đạo, hiện tại các tôn giáo chỉ trích lẫn nhau, giống kẻ bán  dưa nói dưa mình ngọt. Nếu như đúng người đời có thể rủ nhau tới ăn thử xem, như người uóng nước, lạnh ấm tự biết, do sự cảm nhận từ trong lòng mới chân thực, ngon dở do khách chiếu cố phê bình, con cảm thấy so sánh như vậy mới khách quan.
Tế Phật:  Thế giới cố chấp không thông, do đó khó lên được thiên đường. Tiên Phật, thánh hiền, đều thay Trời lập ngôn, đạo Trời chí công. Như chuyện con giáng trần, đầu thai nơi nước ngoài, con tin rằng đại khái tôn giáo ở đó cũng như đây, vì vậy mà ta sẽ không độ con chăng? Nếu thế ta không còn xứng đáng là Phật, và cuộc đi này chỉ là "tiểu đạo vị tư" (đạo nhỏ cho riêng mình). Hy vọng người đời thi thố được công tâm, vất bỏ được tư niệm, còn không thiên đường của con chỉ rộng có năm thước, không thể dung nạp thiên hạ chúng sinh. Hay quá, đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống dai sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI NĂM
TỚI ĐỆ NHẤT ĐIỆN LUẬN BÀN CÙNG MINH VƯƠNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 29 tháng 8 năm Bính Thìn (1976)
 Thơ:
Lục dục  thất tình độ nhất sinh
Kế đề kim bảng việc phù danh
Đào Nguyên tối hảo tu thân địa
Ân sĩ tiêu dao hộ Ngọc Kinh.
 Dịch:
 Sáu dục bảy tình đã ngộ xong
Bảng vàng chẳng thiết được ghi công
Đào Nguyên chốn ấy tu thân dễ
Ẩn Sĩ thảnh thơi dạo suối trong.

Tế Phật:  Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, này Dương Sinh tại sao tâm thần con không được yên tịnh?
Dương Sinh:  Bạch thầy, tâm thần việc đời trói buộc, tấc lòng lo nghĩ miên man, do đó tinh thần con toán loạn .
Tế Phật:  Dạo cõi âm ti không phải trò chơi con nít. Tâm nếu không tịnh linh hồn khó vào âm phủ. Nếu như bữa nay không dạo âm ti, việc viết sách ắt bị trễ nải. Ta cho con một viên thuốc định thần, uống mau đi, chuẩn bị lên đường.
Dương Sinh:  Cảm tạ ân sư, con đã uống rồi, cảm thấy tinh thần sảng khoái, nổi buồn tan biến hết.
Tế Phật:  Mau lên đài sen, khởi hành ...đã tới nơi.
Dương Sinh:  Thưa thầy, đây là chốn nào? Phía trước có một ngôi diện lớn, người đông lố nhố nhìn không được rõ .
Tế Phật:  Phía trước là Đệ Nhất Điện của âm phủ. Chúng ta mau tới gặp Tần Quảng Vương (vua cõi âm ti).
Tần Quảng Vương (Minh Vương, của âm phủ):  Nghinh tiếp Phật Sống Tế Công cùng thánh bút Dương Thiện Sinh từ Thánh Hiền Đường ở Đài Trung tới thăm tệ điện.
Dương Sinh:  Xin tham kiến Minh Vương, bữa nay tôi theo Tế Phật đến làm rộn quí điện, có điều chi lầm lỗi, xin rộng lòng tha thứ.
Minh Vương:  Chớ Khách sáo, xin theo tôi vào điện . Mời an toạ tại nhà khách . Này Tướng Quân mau dâng trà tiên.

Tướng Quân:  Xin tuân lệnh.
Minh Vương:  Kính mời Tế Phật, Dương Thiện Sinh dùng trà.
Tế Phật:  Dương Sinh, chẳng có gì quan trọng cả, uống đi, cớ sao lại trần trừ?
Dương Sinh:  Con không dám uống vì nghe người ta nói, nếu kẻ phàm tới âm phủ ăn uống bất cứ thứ gì, ắt chẳng thể về lại dương gian. Vậy xin mời thầy và Minh Vương cứ dùng đi.
Minh Vương:  Dương Thiện Sinh nói sai rồi . Thế tục tương truyền người cõi trần không thể ăn các món ở âm phủ, đó là nói chung cho mọi người . Âm Dương mỗi nơi đều có chủ, đương nhiên không thể rối loạn kỷ cương. Nhưng còn trường hợp người vâng lệnh Ngọc Hoàng xuống đây thuộc hàng quí khách, vả lại còn có Tế Phật hướng dẫn, há không trở lại  được cõi trần sao?
Tế Phật:  Dương Sinh, con cứ yên tâm, có sắc chỉ của Ngọc Hoàng trong mình . Đứa  quỉ con nào dám chận đường, nếu  có đứa nào dám cả gan phạm sắc chỉ, nhất định sẽ bị trừng phạt chẳng tha. Đừng sợ, cứ uống.
Minh Vương:  Người thế gian đều ham sống sợ chết, không dám uống nước trà còn có lý do. Chứ ở dương gian có một loại người đã hiễu rõ được rằng; làm điều sai quấy, ám muội, chỉ có một con đường chết, nhưng chẳng chịu quay đầu, cứ xông miết tới trước, lao thẳng xuống mồ chôn. Thật quả đáng thương.
Dương Sinh:  Tôi đã uống xong trà, miệng cũng khát quá. Xin hỏi ngài, bê ngoài có nhiều người xếp hàng đi tới là bởi lẽ gì?
Minh Vương:  Tôi trong coi Đệ Nhứt Điện, người phàm sau khi chết, trước tiên phải tới Giao Bộ Sảnh thuộc Âm Dương Giới khai báo. Sau đó âm binh áp giải vong hồn tới bản điện  Bản điện lại chuyển hồ sơ lý lịch và đương sự tới toà án âm phủ, để tôi tra xét cho rõ thiện ác . Kẻ làm điều thiện được dẫn đi xem các điện ở âm phủ. Hay tuỳ theo cơ duyên với vị ân sư nào đó thì được đi về  để tu luyện lại . Cũng có trường hộp được đưa tới Ty Thượng Thiện Hoặc Sở Tu Thiện. Kẻ phạm nhiều tội lỗi bị giải tới Đệ Nhị Điện hoặc Ty Tội Á . Nếu phạm nhiều tội quá nặng, trước tiên bị áp giải lên Nghiệt Cảnh Đài, chiếu cho hiện nguyên hình để tội nhân phải tự cúi đầu chịu tội. Sau đó mới giải trở lại Đệ Nhị Điện.
Dương Sinh:  Bên ngoài có tiếng khóc than đau đớn thê lương không ngớt của các vong hồn. Chẳng hiểu tại sao mà tất cả trẻ già, lớn bé lại đều thảm thương như vậy?
Minh Vương:  Người trần tới bản điện mới biết rõ rằng mình đã từ bõ cõi thế, lúc còn sống họ không tin có quỷ thần và báo ứng nhân quả. Lúc tới đây mới vỡ lẽ rằng khi chết không phải là mọi sự, mọi vật tiêu tan hết. Do đó có câu: "Nhất  đán vô thường vạn sự không, âm lộ chỉ hữu nghiệt tuỳ thân" (Một sớm đổi thay muôn sự chẳng còn chi, chỉ còn lại cái nhân xấu đeo theo mình nơi ngã đường âm phủ). Vong hồn biết rõ sẽ bị luật âm phủ xử và phải chịu hình phạt  Nên có nhiều kẻ lòng lạnh buốt, thân run rây, vừa khóc lóc vừa hỏi han. Họ phải từ bỏ người thân ở chốn dương gian, như: vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng, ngọc ngà vàng bạc, dứt tuyệt ái ân. Hiện tại chỉ còn cái thân trơ trọi ở chốn suối vàng. Mỗi lần nhớ tới dĩ vãng không cầm nổi những giọt mắt bi ai.
Dương Sinh:  Tại sao các âm binh không tôn trọng những vong hồn, lại dùng binh khí, hoặc dùng roi đánh đập khiến các vong hồn nức nở như ve sầu mùa đông, thực đáng thương quá!
Minh Vương:  Những vong hồn nầy ăn ở không có đạo đức ở thế gian, do đó các âm binh không những không giữ lễ mà lại còn xử tệ tuỳ theo tội của họ, quả là : "Ác nhân tự hửu ác nhân ma, Kiểu hảnh đầu cơ độ nại hà" (Kẻ ác có ngày người ác  dạy, Đầu Cơ trục lợi độ sao đây). Nếu như ở thế cõi thế, họ biết để lòng thương xót cứu đời lúc chết đi hẳn là âm binh, thần phục đối xử tốt với họ gấp bọi lần. Chẳng cần phải bênh vực họ.
Dương Sinh:  Khi sống nếu như không tu tâm dưỡng tính, sau khi chết thật đáng thương hết sức. Đời sau nếu như con cháu biết được là tổ tiên mình lúc chết đi  bị coi ngang hàng với tội phạm, bị âm binh khinh  khi đánh đập, chắc chắn sẽ chẳng thể cằm lòng . Cách đền ơn của người đời với tổ tiên là tu đạo hành thiện, lấy công đức siêu độ linh hồn tổ tiên sớm có ngày thoát khỏi sự khổ đau.
Tế Phật:  Người đời nếu như không giữ gìn được khuôn phép của gia cang, hành động bừa bãi thì tổ tiên họ ắt sẽ bị liên luỵ . Cho nên nói "Cửu Huyền Thất Tổ" huyết mạch tương quan, nhân quả tuần hoàn mật thiết, do đó phải hết sức thận trọng! Bữa nay đã cận giờ, sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Minh Vương:  Kính tiễn.
Tế Phật:  Dương Sinh mau lên đài sen sữa soạn trở về ... Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập xác thân.
HỒI SÁU 
DẠO ĐÀI GƯƠNG SOI ÁC NGHIỆP XEM TỘI HỒN HIỆN NGUYÊN HÌNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 6 tháng 8 nhuận năm Bính Thìn (1976)
  
Thơ:
 Hồn đăng nghiệt kính hiện nguyên hình
Giảm tự thâu văn ám bổ kinh
Âm luật vô tư thực phán đoán
Dương nhân tác ác thụ nghiêm hình.
 Dịch:
 Hồn soi gương ác hiện nguyên hình
Bớt chữ gom văn ngầm sửa kinh
Luật xử công minh nơi địa ngục
Người đời tạo ác chịu nghiêm hình.

Tế Phật:  Đã tới giờ dạo địa ngục của bửa nay, Dương Sinh chuẩn bị lên đường.
Dương Sinh:  Thưa, con đã sữa soạn xong, xin thầy khởi hành ...
Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Thưa đây là đâu? Còn đám người đông đúc kia, cớ sao lại bị âm binh áp giải lên đài?
Tế Phật:  Đây là Nghiệt Kính Đài (đài gương soi ác nghiệp). Còn đám đông là những kẻ không giữ đạo đức, chuyên làm việc phi nghĩa, xấu xa ở chốn dương gian, giờ đây đều là quỉ phạm tội. Sau khi chết họ phải đến khai báo ở Đệ Nhất Điện, rồi bị áp giải lên đài, để gương soi ác nghiệp chiếu hiện nguyên hình tất cả những tội ác mà họ đã làm khi còn ở cõi  dương gian. Một khi những tội lỗi ở thế gian đã bị phanh phui thì tội hồn chẳng còn che mắt được hình luật ở cõi âm. Hầu hết những quỉ hồn này, lúc bị đem lên đài, tâm can run rẩy vì họ sợ những tật xấu của họ lộ ra sẽ làm trò cười cho bao kẻ . Mình hãy theo họ lên đài xem.
Dương Sinh:  Thưa phải lắm, có coi rõ mới hiểu hết sự tình.
Thủ Đài Tướng Quân (Tướng Quân giữ đài):  Hoan nghênh Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung tới thăm.
Tế Phật:  Xin thứ lỗi cho, thầy trò chúng tôi phụng mệnh dạo âm ti để viết sách, hôm nay tới đây, xin Tướng Quân đưa Dương Thiện Sinh lên đài để tham quan.
Dương Sinh:  Mời ân sư cùng lên với con, kẻo không con lạ cảnh lạ người, chẳng dám tự tiện một mình xử trí.
Tế Phật:  Được, chúng ta theo Tướng Quân lên đài ... Trước hết, mình đứng ở một bên để quan sát.
Dương Sinh:  Ồ! Ông lảo kia bị âm binh áp giải tới trước gương. Tai sao thân hình già nua vừa rồi lại biến thành chàng thanh niên, đang đêm leo tường vào nhà kẻ khác . Anh ta khôm lưng cậy cửa sổ, nhày vô phòng của một cặp vợ chồng đứng tuổi, trong lúc họ đang ngủ say. Chàng thanh niên chuyên bẻ khoá, cậy gương đó còn đang loay  hoay kiếm vật gì, chợt người chồng tỉnh giấc, thất kinh la lớn. Chàng liền rút dao, nhào tới đâm khổ chủ .Ôi! Máu tươi phọt ra, tôi chẳng dám nhìn.
Tướng Quân:  Đừng sợ hãi, đây chỉ là ảo ảnh Đài Gương Soi Ác Nghiệp . Ông già lúc còn là thanh niên, có lần leo tường vào nhà người trộm đồ vật, bị phát giác, liền rút dao đâm chết chủ nhà . Bây giờ phải đến soi  mình trước đài  gương soi ác nghiệp, cho hiện rõ những hình ảnh lúc  thi hành tội ác.
Dương Sinh:  Đài Gương Soi Ác Nghiệp này chế tạo cách nào mà ảo diệu  quá vậy?
Tế Phật:  Đài Gương Soi Ác Nghiệp, do khí  thiên trời đất kết tụ thành. Linh hồn phạm nhân tới đây, bản chất thực của họ bị chiếu rọi ra hết. Sự thực thì cũng chẳng kỳ ảo gì, người ta từ nhỏ tới lớn, trải qua một kiếp, ác nghiệp trùng trùng . Con người có linh tính nên những việc mình làm, tự mình biết rõ . Tâm linh của mình như một cái máy chụp hình, có thể thâu hết những hành vi ở cõi thế vào trong ống kính, không sót  mải may, nên nó chính là "Tâm kính". Kẻ phạm lỗi trong bóng tối, người ngoài không biết. Nhưng trước khi hành động, đã tự vấn, cân nhắc kỹ càng tồi mới ra tay, thì hẳn là có sự chỉ dạy của "Tâm". Do đó, thần thức âm thầm ghi lại hết những hành vi lớn nhỏ. Nghiệt Kính Đài ở âm phủ do khai khí âm dương kết hợp, khi gặp hai khí hồn phách của người, lập tức hai luồng điện giao nhau, đem hết những hình ảnh của cả một kiếp người đã ghi chép được chiếu rọi rõ ra. Cho nên kẻ làm ác đến trước Nghiệt Kính Đài thì những điều sâu kính lộ ra hết, không giấu diếm nổi . Kinh Phật có nói: "Vạn pháp do tâm sở sanh" (mọi pháp do tâm đẻ ra) đó cũng là đựa theo nguyên lý này vậy.
Dương Sinh:  A, thì ra thế đấy,  nhưng hồn kẻ lương thiện tới đây, Nghiệt Kính Đài chắc chẳn còn tác dụng?
Tướng Quân:  Hồn người lương thiện không cần phải  hiện nguyên hình trên Nghiệt Kính Đài. Trên đài có viết : "Không có người lương thiện trên Nghiệt Kính Đài" mà Dương Sinh không nhìn. Người lương thiện khi chết đi, tính linh của họ trong sáng trước Nghiệt Kính Đài, nên chỉ thấy một màu trắng toát, như lúc chụp hình bị ánh sáng chói loà . Lòng họ không cất giấu bóng tối, do đó không thấy được nguyên hình. Quang tuyến của linh hồn người lương thiện nếu như cực kỳ trong sáng thì hẳn là công  đức quá lớn, họ sẽ hướng thiên đường đi tới. Hoặc được giao thẳng tới các điện để điều tra riêng về công lao lẫn lỗi lầm nên không phải tới đây. Nghiệt Kính Đài còn gọi là "Nghiệp Kính", phàm khi ở cõi trần mà phạm vào  "ác nghiệp" đến đây lập tức hiện rõ nguyên hình. Dương SInh, người thử xét một lần nữa xem sao.
Dương Sinh:  Còn thiếu nữ đang bị âm binh áp giải lên Nghiệt Kính Đài, cô ta quá sợ hải không dám bước tới, cứ than gào thảm thiết, tình cảnh thật đáng thương, đau lòng hết sức. Âm binh tại sao không thương hoa tiếc ngọc, lại dùng chỉa sắt đẩy lên đài, cách đối xử chẳng khác nào với  một phạm nhân... A! Còn chổ kia có khá nhiều đàn ông ra ra vào vào, trong nhà đèn hồng cửa lục, giống hệt cảnh ở  dương gian quen gọi là chốn ăn chơi.
Tướng Quân:  Đúng là chốn ăn chơi ở cõi dương gian nhà ngươi xem xét kỹ càng coi.
Dương Sinh:  Mỗi phòng trong nhà yến oanh ríu rít, đúng là chốn mê đấm lòng người, chẳng dám nhìn lâu, thưa ân sư mình về thôi.
Tế Phật:  Nhìn lâu con cảm thấy khó chịu, là con có cái lòng "Lễ, Nghĩa, Liêm , Sỉ" quả không thẹn là một môn sinh đắc ý của thầy. Còn cô gái giang hồ, buôn linh hồn bán xác thân, gạt gẩm người để lấy tiền, lời nói thô lổ cộc cằn, mất hết nữ tính, quả đắc tội quá lớn. Cô ta vì mắc bệnh hoa liễu nên sớm thác, vì thế hồn đến âm phủ khó thoát khỏi thảm hình . Khuyên phái nữ ở cõi thế gian, nên kính trọng gìn giữ tấm thân, tuyệt đối không được truỵ lạc ở chốn yêu hoa không được buôn sắc bán hương, để tới nổi đôi tay ngọc trăm ngàn kẻ gối, còn bị  phường tục tử sĩ nhục. Chỉ vì tham tiền bạc, đã tạo biết bao tội lỗi . Đàn ông  ham chơi bời cũng phạm tội dâm ô, hy vọng mau sửa đổi  tật xấu đó . Dương Sinh! Thôi mình sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Tướng Quân:  Rất tiết hai vị không thể lưu lại đây lâu hơn nữa.
Dương Sinh:  Nghiệt Kính Đài đã thấu hiểu kỳ càng, không dám ngó thêm. Các tội hồn đã bị lộ hết những tật xấu xa, tôi hiện còn là kẻ phàm nhân, ở lại càng tăng thêm xự sấu hổ của họ, bởi vậy tôi xin cáo biệt.
Tế Phật:  Đa tạ Tướng Quân đã chỉ  dẫn cho, chúng tôi phải sửa soạn trở lại Hiền Đường, ngày khác sẽ tới thăm viếng "Bổ Kinh Sở" (sở bổ túc kinh điển), đi thôi Dương Sinh, mau lên đài sen, sửa soạn trở về Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh:  Con sợ hãi quá!
Tế Phật:  Sợ chi? Gắng làm người lương thiện sẽ tránh khỏi phải tới đây để lộ bộ mặt xấu xa ... Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh mau xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI BẢY
DẠO SỞ BỔ TÚC KINH ĐIỂN
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 9 tháng 8 nhuận năm Bính Thìn (1976)
 Thơ:
 Ám thất vi đăng hổ khổ kinh
Tăng ni đạo sĩ quyên khu hình
Đồng linh dao động kim tiền hưởng
Địa ngục thân ngầm tử tế thinh
Dịch:
Phòng tối đèn mờ học lại kinh
Tăng ni đạo sĩ cực thân mình
Chuông đồng lay chuyển tiền vàng động
Địa ngục nghe than rõ sự tình.

Tế Phật:  Bữa nay sắp dạo địa ngục, Dương Sinh lên đài sen, tâm không được hoang mang.
Dương Sinh:  Dạ dạ, nhưng thưa ân sư, thảm cảnh ở địa ngục hiện thời con không dám ngó.
Tế Phật:  Những tội hồn đó đều đắc tội, con không thể về hùa bên vực họ . Lên đương ngay ...đã tới, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Những phòng ốc sao đen ngòm ngòm thế kia, bên trong hình như lại có cả tiếng khóc than?
Tế Phật:  Đó là "Bổ Kinh Sở" (Sở bổ túc kinh điển), mình có thể  tới thăm cho biết
Dương Sinh:  Xin theo..... Trên cửa phòng thấy đề ba chữ "Bổ Kinh Sở", có hai vị tướng quân từ ngoài tiến vào, không rõ họ là ai?
Tế Phật:  Đây là Tướng Quân giữ cửa.
Tướng Quân:  Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh từ Thánh Hiền Đường ở Đài Trung đã tới.
Tế Phật:  Miễn lễ, bữa nay ta đưa thánh bút Dương Sinh tới thăm Sở Bổ Túc Kinh Điển, mong được Tướng Quân hướng dẫn.
Tướng Quân:  Dạ dạ, mời theo tôi, hai vị có thể vào cửa bên hông, vì cửa lớn chỉ mở vào hai ngày mồng một và mười rằm . Trong hai ngày này, SỞ Bổ Túc Kinh Điển đều có Phật Tổ cùng Đạo Tổ, Tiên Thánh cao minh từ Tây phương giáng lâm, dạy pháp cho các đạo sĩ, tăng ni.
Dương Sinh:  Được tới đây là vinh hạnh lắm, còn các cửa khác đều không quan trọng .  Sở Bổ  Túc Kinh Điển ảm đạm tối tăm, tôi đứng đây quan sát cũng đủ rồi, khỏi cần vô trong.
Tướng Quân:  Chớ ngại, để tôi dẫn đường, đừng sợ chi cả .
Dương Sinh:  Hay quá, gian phòng này đầu làm bằng gỗ, có lẽ đã quá lâu đời, nên nhiều chỗ mục nát, vách lủng lổ chổ đó đây. Trong phòng có hàng ngàn người phục sức đúng vẻ tăng ni, đạo sĩ  Dưới ánh đèn loè lẹt, họ đang lật kinh mở sách, miệng ê a tụng, coi vẻ rất khổ sở.
Tướng Quân:  Những tăng ni, đạo sĩ này lúc còn tại thế, chuyên tụng kinh siêu độ hầu giúp người ta tai qua nạn khỏi, để lấy tiền nuôi thân. Nhưng vì họ thiếu lương tâm, nên chỉ một mực lý tài, nên lén bỏ bớt kinh, không hề căn cứ theo sách, hoặc tụng sai  chữ trong kinh. Sau khi chết đều bị đầy xuống Sở Bổ Túc Kinh Điển để học lại kinh. Hàng đem họ nhờ ánh sáng của con đom đóm tụng kinh lại kinh sách, hễ cứ bỏ sót một chữ phải tụng  lại một trăm lần, bổ túc xong mới căn cứ vào công  lao đó mà phán xét.
Dương Sinh:  Tướng Quân nói như vậy thì Kinh Thánh Ngọc Hoàng Phổ Độ cùng Chân Kinh Thái Thuợng Vô Cực Hổn Nguyên của bản Hiền Đường làm ra ai còn dám tụng ? Có rất nhiều người thành tâm tụng niệm, nhưng âm chữ không đúng, liệu tương lai có bị đày xuống Sở Bổ Túc Kinh Điển nầy không?
Tướng Quân:  Không, chỉ những kẻ lúc còn tại thế, lấy việc tụng kinh lễ bái làm kế sinh nhai mới phải tới Sở Bổ Túc Kinh Điển mà thôi. Lấy tiền của người để giúp người trừ tai hoạ, nhưng lại không tụng đủ kinh của đạo Phật đạo Thánh nên phải tới đây. Nếu như tụng kinh cho mình hoặc phục  vụ cho người khác, sự phát âm tuy không đồng đều nhưng không thủ lợi, không giả dối để lấy tiền, lỡ đọc sai, luật trời sẽ đặc biệt khoan thứ.
Dương Sinh:  Ngọn đèn tù mù, nhỏ bằng con đom đóm, còn bị gió cõi âm lùa thổi chập chờn như muốn tắc. Các tăng ni đạo sĩ  tuổi cao, mắt loà, đọc kinh sách chữ nhỏ bằng đầu con  ruồi . Người nào người nấy dáng vẻ tiều tuỵ khổ đau, quả thực đáng thương.
Tướng Quân:  Nhận tiền thì phải trao hàng, vậy mà lấy tiền của chủ nhân lại không lo giải quyết công việc của người ta cho thoả đáng, đương nhiên bị quả báo.
Tế Phật:  Các tăng ni, đạo sĩ khuyến hoá thế gian, tụng kinh có thể giác ngộ được đạo . Còn kẻ dựa vào sự tụng   niệm để kiếm cơm  ăn áo mặc, thì phải hết sức cẩn trọng . Một chữ một câu không được thâu ngắn, giảm bớt hoặc  niệm sai. Dối trá không làm tiêu tan được tai hoạ cho người thì mình phải gánh thế  tai ương của họ .
Tướng Quân:  Cứ vào ngày mồng một,  mười rằm lại có hai vị giáo chủ đạo Phật và đạo Lão tới đây kiểm soát kinh điển, cùng chỉ dạy cách phát âm trong kinh sách cho thật chính xác . Chúng sinh tạo ra nguyên nhân làm liên luỵ đến Tiên Phật, khiến các ngài phải đích thân đến tận địa ngục để cứu khổ cho. Tiên Phật quả thực từ bi, thiên hạ chúng sinh phải tự giác ngộ, vì mỗi hành vi cử chỉ nhỏ nhặt đều không tránh khỏi được luật pháp của cõi âm trừng trị.
Dương Sinh:  Tôi đã tỏ tường, xin đa tạ sự chỉ giáo của Tướng Quân.
Tế Phật:  Dương Sinh, con hãy đến thỉnh giáo vị đạo sĩ để tìm hiểu vì sao ông ta phải tới đây?
Dương Sinh:  Thưa Vâng, xin đạo trưởng cho biết tại sao mà ông phải tới đây?
Đạo Sĩ:  Xin đừng kêu tôi là Đạo Trưởng, vì lúc còn tại thế, tôi chỉ là Đạo Sĩ Đỏ Đầu (Hồng Đầu  Đạo Sĩ) chuyên lo việc lễ bái, cầu siêu để tế độ cho người chết . Xong vì học thức kém cỏi, không có căn bản, thuộc lỏm  bỏm chút kinh kệ, chỉ ê a theo tiếng chuông, tiếng mõ mà tụng cho qua, gia chủ cũng chẳng hiểu tôi niệm những gì .  Để ăn gian thời giờ, hai trang kinh tôi  thương chỉ  đọc có một còn bỏ một, cốt sao lấy được tiền bỏ túi thôi, còn người chết có tới được Tây phương cực lạc hay không mặc họ . Sau khi chết tôi bị âm binh áp giải tới Đệ Nhất Điện rồi chuyển  giao qua Bổ Kinh Sở . Tôi tới đây đã được một năm, hai tháng ngoài, khi sống thâu kinh giảm tụng quá nhiều, cho nên phải chịu khổ sở tới giờ mà vẫn chưa bổ túc xong kinh điển, lại thêm đôi tròng mắt sưng đỏ, đau nhức không  chịu nổi. Hoàn tất  việc bổ túc kinh điển, có thể tôi bị tống qua Đệ Nhị Điện, để quan toà ở đây xét tội bởi  lẽ lúc sống tôi cũng phù phép hại người . Hiện giờ tôi rất  hối hận, nhưng đã quá muộn, chỉ mong sự thành tâm hối cải của tôi được chuyển tới các pháp sư, đạo sĩ ở dương gian, để nhắc nhở họ phải luôn luôn hành sự cho có lương tâm, nếu không  sẽ giống như tôi, hiên thời chỉ còn biết trông mong ở người khác siêu độ.
Dương Sinh:  Đa tạ Tướng Quân, các vị đạo trưởng, sư phụ đều cố gắng tu luyện lại, thực quá tốt.
Tế Phật:  Tội của hắn là tội báo ứng, tự làm tự lảnh . Ở  dương gian hắn quá sung sướng, khiến hiện tại phải chịu khổ, chịu sở . Chớ có lo lắng chuyện không đâu, chúng ta chỉ là kẻ  phụng chỉ dạo cõi âm, ngoài ra chớ có để tâm thắc mắc về chuyện can thiệp . Việc này thuộc  về luật pháp của âm phủ . Thời giờ đã trễ, chuẩn bị trở lại Hiền Đường, cảm tạ Tướng Quân.
Dương Sinh:  Đa tạ Tướng Quân, các vị đạo trưởng, sư phụ đều cố gắng tu luyện lại, thực quá tốt.
Tế Phật:  Mau lên đài sen....đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI TÁM 
DẠO THÀNH THÁC OAN
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 8 nhuận năm Bính Thìn
 Thơ:
Lưỡng độ trung thu khánh nguyệt viên
Hồn tù địa ngục hữu thuỳ liên
Tự tầm đoản kiến nan như ý
Hoành hoạ phi lai khốc cửu truyền.
Dịch:
Rằm nhuận trung thu mấy lượt mừng
Vong hồn địa ngục có ai thương
Tự tìm cái chết không như ý
Vạ gió tay bay khóc suối vàng.

Tế Phật:  Năm nay nhuận, hai rằm trung thu, kể từ lúc lãnh sắc chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký tới giờ thấm thoát đã tròn một tháng. Thời giang như nước chảy, mong người đời giác ngộ mê lầm, tỉnh thức mộng ảo . Trăng sáng đã mấy lần tròn? Tuổi nào mới gặp lại được  năm nhuận hai rằm trung thu? Người đời tản bộ chuyện phiếm dưới trăng, có chi sung sướng, nhìn lại địa ngục chỉ thấy tối tăm, hồn quỉ khóc than thê thảm, khiến mọi người chẳng dám nhó. Dương Sinh chuẩn bị dạo địa ngục.
Dương Sinh:  Xin tuân lệnh, thời gian qua mau quá, đã tròn một tháng mà chưa hoàn tất nổi một phần mười việc dạo địa ngục để viết sách. Con sợ trách nhiêm lớn lao này khó đạt thành .
Tế Phật:  Chỉ cần giữ vững niềm tin, vì người xưa có nói: "Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai" (Có cong mài sắt có ngày nên kim). Tâm đạo của con kiên định, mười cửa điện của địa ngục tự mở, con chỉ nhìn một luợt là tỏ tường hết cả, chớ quá lo âu. Mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sửa soạn xong, mời ân sư khởi hành ....
Tế Phật:  Đã tới, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Thưa chốn này có phải là "Uổng Tử Thành" (Thành Thác Oan" không? Phía trước có cửa thành khép kín, trên đề ba chữ "Uổng Tử Thành" có nên vào trong thăm không?
Tế Phật:  Đúng, hôm nay mình thăm Thành Thác Oan, con hãy theo thầy vào trong thành.
Dương Sinh:  Thưa cửa thành tại sao lại khép chặt, làm cách nào vào được.
Tế Phật:  Cửa thành này là cửa tự động, giống cửa siêu thị ở thế gian. Phàm những linh hồn thác oan, vì chết một cách không bình thường chính đáng, oan khí không tiêu. Khi quỉ vô thường dẫn tới đây, oán khí tương xung, cảm ứng với nhau, cửa này tự nhiên mở rộng. Mọi vật ở cõi âm đều do hai khí âm dương của tạo hoá làm nên, tuỳ tâm ứng biến, ta dùng quạt bồ quạt một quạt, cửa tự nhiên mở lớn.
Dương Sinh:  Thưa ân sư, công phu của thầy quả mảnh liệt, thầy có thể cho con mượn chiết quạt này mang về dương gian, biểu diễn pháp thần thông một lần cho thiên hạ lé mắt.
Tế Phật:  Con chớ vọng niệm, vọng niệm dễ bị ma nhập, tu đạo chẳng cần phép thần thông biến hoá, chỉ cần luôn luôn tâm an lý đắc, một ngày vô sự, tinh thần thanh sảng, cũng đủ làm một "Tiểu Thần Tiên". Cần gì phải cầu mong có được quạt bồ này, để gây thêm phiền nảo.
Dương Sinh:  Thưa đúng, xin đa tạ ân sư đã khai thị cho con, con thật đáng hổ thẹn. Phía trước có một toán người đi tới, họ là ai vậy?
Tế Phật:  Đó là Tướng Quân cùng quan viên của Thành Uổng Tử, hãy chuẩn bị chào đoán họ.
Thành Quan:  Cung kính nghinh tiếp Phật Sống Tế Công cùng thánh bút Dương Thiên Sinh từ Thánh Hiền Đường tới, xin mời theo chúng tôi vào trong thành tham quan.
Tướng Quân:  Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh đã tới. Chúng tôi đã nhậ được sắc lệnh phải sửa soạn nghinh đón quí  ngài từ lâu. Rất hân hoan được biết các ngài đi thăm các ngục để viết sách khuyên đời.
Dương Sinh: Theo gót các vị Tiên Trưởng, hôm nay tôi cùng ân sư tới thăm quí bản địa , xin chỉ giáo nhiều cho.
Thành Quan:  Thưa không dám, mời đứng vậy, xin theo chúng tôi vào trong thành .
Dương Sinh:  Đây y hệt một nhà ngục lớn, rộng rãi vô cùng. Trong thành thác oan này có chừng bao nhiều người?
Thành Quan:  Hàng ngày đều có người thác oan tới đây, xin theo tôi tuần tự đi thăm từ gian đầu của nhà giam.
Dương Sinh:  Gian này có hàng bầy con nít, máu me đầy mặt, kêu gào luôn miệng, có đứa lăn lộn trên sàn đất thật là thê thảm, đáng thương hết sức. Tại sao không thả chúng ra?
Tướng Quân:  Những hài nhi này là kết quả của sự truỵ thai của người đời, vì người đời không chịu nuôi nắng, hoặc kết tinh không chính đáng. Chúng  đã thành hình, không diệt được thiên tính, nên sau khi chết đều phải tới đây. Mỗi người là một sinh mệnh, vậy mà đời sống của những hài nhi này lại bị vứt bỏ, không cho chào đời. Do  đó lòng chúng oán hận không nguôi, luôn ngấm ngầm hại lại cha mẹ, khiến cha mẹ phải tan nhà nát cửa, chờ cho tới khi cha mẹ  chết chúng níu kéo đeo theo không dứt. Bởi vậy, khuyên người đời không được tuỳ tiện phá thai. Hành động này không những tổn đức mà còn tạo thành thói dâm đãng quá mức... Phàm kẻ đã lỡ phá thai làm chết oan hài nhi, phải lo tạo nhiều công đức  để chuộc lỗi lầm, thì luật cõi âm cũng có thể chiếu theo đó mà giảm khinh cho.
Dương Sinh:  À thì ra là vậy. Nhưng xin hỏi Tướng Quân, những kẻ bất đắt kỳ tử cũng đều phải tới Thánh Thác Oan này cả hay sao?
Tướng Quân:  Không phải. Như quân lính, tướng sĩ vị quốc vong thân, vì bảo vệ giang sơn mà hy sinh tính mệnh, có thể nói là họ đã hy sinh tiểu ngã để hoàn thành đại ngã . Chẳng những họ không bị giam ở Thành Thác Oan này mà trái lại các anh hồn trung liệt đó còn được lên cõi Trời tiêu dao, có vị vì còn mắc vòng nhân quả mới phải về cõi thần, hoặc tái đầu thai nơi phước địa làm người.
Dương Sinh:  Tướng Quân nói rất đúng.

Tế Phật:  Trời đất rất thương những kẽ hiền lương trung nghĩa. Từ xưa tới  giờ, cá vị ái quốc, liều mình hy sinh cho chính nghĩa đều khiến trời đất sợ, quỷ thần khóc. Do đó có nhiều người chỉ  dốc

lòng vi chử trung mà thành được đạo. Bữa nay thời giờ đã cạn Dương Sinh mau sửa soạn trở lại Hiền Đường, ngà khác sẽ trở lại tìm hiểu thêm. Hướng Tướng Quân, Thành Quan cáo từ.
Dương Sinh:  Đa tạ Tướng Quân, Thành Quan đã chỉ giáo, xin cáo biệt.
Thành Quan:  Có điều chi thất thố, xin Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh lượng thứ cho.
Tế Phật:  Xin chớ khách sáo . Thầy trò chúng tôi xin phép trở lại Hiền Đường .
Dương Sinh:  Thưa ân sư, con đã lên đài sen.
Tế Phật:  Than ôi! Người đời vì mê lầm, chỉ biết tắm sông yêu, coi rẻ máu thịt nên đã phá thai, quăng bỏ hài nhi, thê thảm biết là bao? Đến Tiên Phật cũng chẳng dám nhìn. Khuyên chúng sinh phải sửa đổi, lên thuyền từ, vâng ý Trời, xây dựng đạo vợ chồng để nối dõi tông đường, điều hoà hạnh phúc gia đình êm  ấm. Sung sướng tinh thần còn hơn sảng khoái tính dục, quí trọng gìn giữ tinh khí, máu huyết không không được quá phung phí, vì nó chỉ có hạn. Hãy cố gắng trở thành người hữu ích cho nhân quần xã hội quốc gia. Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI CHÍN
LẠI DẠO THÀNH THÁC OAN
 Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 8 nhuận năm Bính Thìn
Thơ:
Tuyên dương chân lý độ phàm phu
Chấn khởi cương thường hoá tục ngu
Vạn giạo qui tông triều thánh chúa
Nhân nhân học đạo niệm nam mô.

Dịch:
Nêu cao lẽ thực cứu người ngu
Nâng giác mối giếng giúp họ tu
Muôn giáo quay về chầu một đấng
Người người học đạo niệm nam mô.

Tế Phật:  Lòng người trên thế giới chạy  ùa theo cái học về khoa học, coi cái học về siêu hình huyền bí, về tinh thần tín ngưỡng là chuyện không tưởng. Họ không hiểu rằng vật chất sẽ tan biến, chỉ tinh thần mới vĩnh cửu mà thôi. Thiên đường hay địa ngục cũng đều do ý nghĩ của mình mà có hoặc không. Thiên đường không xa, nghoảnh đầu lại thấy ngay; địa ngục há gần, tu đạo ắt xa. Trong thành Thác Oan thê  lương vô cùng. Dương Sinh, bữa nay thầy trò mình sửa soạn dạo âm ti, tinh thần ráng phán khởi, mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Thưa ân sư, con đã sửa soạn xong xuôi, xin thầy khởi hành.
Tế Phật:  Đã tới.
Dương Sinh:  Thưa chốn này giống như bữa trước đã đến thăm. Tại sao thầy không hạ đài sen phía ngoài Thành Thác Oan, vì chỉ cách có một bước đường?
Tế Phật:  Phật cho bốn tướng: sinh, trụ, hoại,  diệt đều là không, nên cửa địa ngục cũng sẽ bị phá bởi tướng không, qua lại tự do, mảy lông không không trở ngại. Bữa trước dẫn con tới lần đầu, hạ đài sen phía ngoài Thành Thác Oan rồi đi bộ vào là vì bữa đó có nhiều thời giờ, còn bữa nay thời giờ eo hẹp, cho nên phải vào thẳng địa ngục. Mong người đời giác ngộ, tu đạo nếu như trừ khử được sắc tướng, tự nhiên không còn sự trói buộc của địa ngục, giống như thầy tự do lui tới.
Dương Sinh:  Thưa, thầy vừa giảng về "Thuợng Thừa Đại Pháp" con thành tâm thụ giáo. Phía trước Thành Quan cùng Tướng Quân đang đi tới.
Tế Phật:  Mau mau đến vái chào.
Dương Sinh:  Kính chào Thành Quan cùng Tướng Quân. Bữa trước quí vị đã tận tình chỉ giáo, lòng ghi nhớ mãi ân này. Bữa nay lại tới làm phiền, xin được chỉ giáo thêm.
Thanh Quan:  KHông dám, mời Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh theo chúng tôi vô thăm lại Thành Thác Oan, hầu tỏ rõ sự tình để còn tả vao sách mà khuyên giải người đời.
Dương Sinh:  Chân thành cảm ơn. Bạch ân sư, mình cùng quí vị đó vào thăm.
Tế Phật:  Con cùng Thành Quan và Tướng Quân vào trước đi. Ta còn bận chút việc riêng, tạm rời khỏi nơi đây.
Dương Sinh:  Thưa, thầy đi như vậy, chút nữa ai đưa con về ?
Tế Phật:  Con chớ lo, tới giờ đương nhiên thầy về đón con.
Tướng Quân:  Dương Thiện Sinh cứ yên tâm theo tôi.
Dương Sinh:  Hai gian phòng có vách ngăn ở giữa, mỗi bên nhốt đầy thanh niên nam nữ, theo như tôi thấy, họ đầu bù tóc rối, vóc cáng tiều tuỵ. Xin hỏi Thành Quan vì lý do gì họ lại bi giam giữ ở đây?
Thành Quan:  Những kẻ đó đều là thanh niên nam nữ, lúc còn ở dương gian vì yêu đương dang dỡ, lại thêm tính tình nông nổi, uống đợc dược quyên sinh, sau khi chết đều bị giam giữ ở đây. Mong người đời chớ quá si mê, thất trí mà coi rẻ mạng sống, chẳng ích lợi gì. Nếu như không làm chim liền cánh thì làm sao có thể làm cây liền cành được.
Dương Sinh:  Còn trong nhà ngục kia, tại sao lại toàn những kẻ cụt chân, cụt tay, bể óc, mình mẩy ướt đẩm máu tươi? Khóc than rên  siết trông thật đáng thương.
Thành Quan:  Những người đó đều chết vì tai nạn xe cộ ở dương gian, vì chưa tròn tuổi thọ nên cũng thuộc loại thác oan, nên hồn tới địa ngục bị tạm giam ở đây, cho  đến khi đúng tuổi thị thì giao lại cho vua âm phủ. Vua âm phủ sẽ chiếu theo luật âm dương vô tư mà xét xử công và tội.
Dương Sinh:  Trong đó có thứ đạo lý ấy được sao? Bất hạnh chết vì tai nạn xe cộ, đã đáng thương lắm rồi, lại còn đem họ nhốt tù, khiến chẳng thể siêu sanh, tôi cho như vậy là vô nhân đạo.
Thành Quan:  Nhà ngươi biệt một mà chẳng biết hai, đâu phải ai bị  tại nạn xe cộ cũng vào đây. Có kẻ tuổi thọ đã tròn đầy, song nghiệp chướng còn trói buộc thân mà phải  chịu cái hoạ oan nghiệt tai nạn xe cộ thì không phải vào đây. Sỡ dĩ người đời nhiều kẻ oán trời, trách đất là tại sao lúc sống họ tu  nhân tích đức mà ại bị chết ở dưới bánh xe? Đạo trời quá bất công! Thử hỏi thầy Nhân Hồi là người hiền đức, lương thiện tại sao lại sớm thác? Thế Tôn Như Lai một lòng vì đạo, tại sao không ngớt bị gặp tai nạn quỷ ma? Đâu phải tại trời xanh không mắt, mà là số kiếp trời định để rèn luyện tâm tính con người. Huống  thân xác nhỏ  nhoi tuy tiêu vong mà tinh thần bất diệt.
Dương Sinh:  Đã có ba kiếp thiện ác báo ứng quy định, tại sao lại còn chết oan? Vì vậy, nếu nói nhân quả người sẽ không tin nữa. Xin Thành Quan khai thị để giải trừ nghi hoặc.
Thành Quan:  Ba kiếp nhân quả chỉ là một chặng  ngắn mà thôi. Con người từ muôn kiếp vô thuỷ tới nay, không biết trãi qua bao nhiều đời, nhân quả tích tụ lại đếm không hết. Sỡ dĩ Phật nói ba kiếp nhân quả là chỉ để luận về  nhân duyên trước và sau của con người, gồm kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Tiền kiếp không phải chỉ có một đời trước, mà là cái nhân của toàn bộ kể từ lúc bắt đầu có tính linh tới khi tích chứa lại. Người đời đều ngộ nhận kiếp này là kết quả của toàn bộ kiếp trước, do đó chưa thông lẻ đạo. Kiếp trước định bảy phần, còn kiếp này định ba phần, cho nên nói "Mệnh nan cãi, vận khả di" (Mệnh khó cãi, vận có thể dời).
Dương Sinh:  À thì ra là thế. Một số người phàm chuyện gì cũng cho là nhân quả kiếp trước, hoặc ngược lại tin là trời cao sắp xếp, đó là tư tưởng tiêu cực, thực tế không đúng. Mấy căn nhà giam phía trước, tiếng kêu thê thảm không dứt, họ bị giam cầm như vậy là phạm phải tội gì?
Thành Quan:  Đó là vong hồn những kẻ bị chết vì mưu sát hoặc giết lẫn nhau.
Dương Sinh:  Cảnh này thật không nghĩ nổi, kẻ giết, người bị giết đều là nhân quả báo ứng, sự chết tới là lẽ đương nhiên, nhưng tại sao sau khi chết còn bị đầy ở Thành Thác Oan này?
Thành Quan:  Lý luận vậy cũng đúng. Có kẻ giết lẫn nhau vì nhân quả báo ứng, những cũng có một số người kiếp này không  tu nhân tích đức, nguyên nhân gây nên sự tương tranh, làm thương tổn lẽ trời, đó là lý do của sự thác oan. Mong người đời hiểu rõ lẽ này. Không thể nói rằng ta giết kẻ đó vì kiếp trước kẻ đó còn thiếu nợ ta. Tục ngữ có nói ": Oán khả giải, bất khả kết" (Oán nên cởi, chẳng nên buộc). Nếu kẻ khác thiếu nợ mình mà mình không đòi, mình có được  vô lượng  công đức. Nếu như kẻ lòng không dấy ý niệm riêng tư, đối đải thuận thảo với nhau, giống như trời không che riêng ai, đất không chở mình ai, ắt địa ngục thành không có, nhân quả chẳng thành. Sỡ dĩ người đời hiểu rằng thân mình khó được, phải gắng tu tâm dưỡng tính. Nếu  như tham hoa mà nói kiếp trước hoa thiếu nợ ta, tới đâu cũng săn bẻ hoa đẹp thì đó không phải là cái "nhân" của kiếp trước báo ứng. Cái "nhân"  của kiếp trước phải là vô tình mà găp gỡ, còn như kẻ cố ý hành động bất lương là kiếp này tạo thêm "nhân" mới sẽ kết thành quả của kiếp sau.
Tướng Quân:  Điều Thành Quan phát biểu, câu nào cũng là chân lý, người đời nên hiểu mà giác ngộ. Nếu như không tin cái lý này, người đời sẽ  không tu đạo, nói thác  là chỉ những kẻ có căn Tiên, cốt Phật mới có thể thành đạo.  Hoặc nói kiếp này mình chỉ cầu có một tài sản ngàn muôn vạn hẳn sẽ chẳng cần phải làm việc thì đều là  sai cả.
Tế Phật:  Ta đã về tới. Điều Thành Quan và Tướng Quân vừa nói thực là chí lý, có thể phá tan được sự mê lầm của thế nhân. Hãy nhớ lại cái thuở ban đầu thiêng liêng vô thuỷ, từ cõi Trời, người người đều là Tiên Phật, nhưng vì rơi xuống cỏi thế gian, bụi hồng làm mê muội, lu mờ chân tính, do đó không thể trở về nguồn cội. Tới nay được Trời ban đao. lớn, dạy dỗ mọi người tu đạo, đây  là thời kỳ kết thúc nhân quả mà trở về  chân không. Chúng sinh chẳng thể lại si mê, kẻ chịu tu có cái phận của Tiên Phật; kẻ không tu, rớt trở lại sáu ngã luân hồi như cũ. Tiên quỷ do người làm nên, số mệnh chẳng phải do Trời sắp xếp, thấy cảnh trong thành Thác Oan, hẳn là đã thấu tỏ. Đã tới giờ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền Đường. Đa tạ Thành Quan cùng Tướng Quân đã tận tình giúp đỡ việc hoàn thành cuốn sách qua sự chỉ dẫn rành rọt về thực trạng của thành Thác Oan, cùng đã phá về mê tín.
Dương Sinh:  Lẽ đạo sâu như biển, nếu như không được sự chỉ dạy của Thành Quan và ân sư, hẳn là người đời chẳng thể tỏ tường. Mong ân sư khai thị về  chân lý nhiều hơn nữa để giáo hoá  được người đời, để kẻ tu đạo có được đường hướng đứng đắn, nhận định mẫu mực, mới mong tránh được cảnh cho tới chết mà chân lý vẫn chưa được giác ngộ.
Tế Phật:  Đó là trách nhiệm của ta, từ đây về sau sẽ tăng cường việc  phát huy chân lý của đạo giáo. Thánh Hiền Đường được lệnh Trời lo việc đó để phổ độ chúng sinh, hầu giúp thiên hạ chúng sinh quay về chính đạo mà thành chính quả. Mau sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh:  Xin vâng lệnh, con đã lên đài sen, mời thầy trở về...
Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI
DẠO ĐỆ NHỊ ĐIỆN BÀN BẠC VỚI SỞ-GIANG-VƯƠNG
CÙNG THĂM NƠI GIẢNG ĐẠO
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 26 tháng 8 nhuận năm Bính Thìn (1976)

Thơ:
Tam tào phổ độ quỉ thần nhân
Địa ngục cơ quan nhật nhật tân
Nhiệm nhĩ dương gian đa ám thất
Nan đào pháp nhản dạ du tuần.
Dịch:
Ba ngôi cứu chuộc đủ muôn loài
Địa ngục cơ quan đổi  mới hoài
Cho dẫu gian manh trong xó tối
Tránh sao mắt thánh dõi theo ngươi.

Tế Phật:  Dạo địa ngục viết sách làm khổ tâm cả thần lẫn người là mong độ kể mê lầm trên dương thế, nên chẳng quản công lao, do đó có thể nói là "Vi thiện tối lạc", làm việc thiện một cách rất vui vẻ. Các đệ tử đêm nào cũng cố gắng công phu cho tới canh khuya, khiến Phật ta thực là cảm động. Tam Tào (Thiên Tào: trời, Địa Tào: âm phủ, Nhân Tào: các bậc đạo cao đức rộng) phổ độ, trên độ khí tinh tú sông Nhân, giữa độ muôn vạn chúng sinh cõi thế, dưới độ hồn quỉ địa ngục. Lúc này Trời và người cùng hoang mang, cửa Thánh mở rộng, chánh đạo ban  xuống, có duyên gặp đạo tu đạo,  vô duyên thấy Phật chê Phật, tự xa lánh thiên đường. Nhìn lại cõi thế gian, chốn chốn  thiền đường mọc lên như nấm, đạo khí toả khắp mọi nhà. Lúc này văn hoá phục hưng, đạo xưa được kính trọng và thi hành, hiện ra cảnh tượng tốt lành . Hồn quỉ ở dưới địa ngục mong chờ lúc này để được cứu chuộc .

Hôm nay đưa Dương Sinh dạo địa ngục thăm qua một lượt, để hiểu rõ sự tình, hầu thuật lại cho người đời rõ . Dương Sinh sửa soạn dạo âm ti.
Dương Sinh:  Thưa con đã sẳn sàng.
Tế Phật:  Chốn dạo thăm bữa nay là Đệ Nhị Điện, tinh thần con phải hăng hái lên.
Dương Sinh:  Thưa vâng, nếu như con thất thố hoặc sai quấy, xin ân sư cứ trách mắng, đừng quản ngại.
Tế Phật: Không có chi, mau lên đài sen, khởi hành thăm âm phủ ....đã tới, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Phía trước là đâu? Thấy có người ta đông cứng, lại thêm bọn đầu trâu mặt ngựa áp giải các vong hồn đi tới.
Tế Phật: Đây là Đệ Nhị Điện, mình đi lẹ tới gặp Sở Giang Vương.
Dương Sinh:  Toán người từ đằng trước đi tới, ở giữa có một vị thân thể to, khoẻ mạnh, mình bận bộ đồ xưa, giống như lễ phục  ở dương giang người ta thường mặc vào các dịp cúng tế thần linh, hào quang toả lấp lánh, vẻ oai phong lẩm liệt, hai bên có quân tướng hộ giá.
Tế Phật:  Đây chính là Sở Giang Vương ở Đệ Nhị Điện, mau tới ra mắt.
Dương Sinh:  Xin ra mắt Sở Giang Vương cùng Tiên Quan.
Sở Giang Vương (Minh Vương, Diêm Vương, vua âm phủ):  Miễn lễ, mời đứng dậy. Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thuốc Thánh Hiền Đường quá bộ tới thăm. Bản Điện đã sớm nhận được chiếu chỉ của Ngọc Đế, nên rõ quí Hiền Đường vì nhu cầu trước tác Địa Ngục Du Ký cần phai đi thăm mười điện địa ngục, đồng thời cũng vừa nhận được thư tay của Tế Phật, bảo là hôm nay sẽ tới thăm bản điện, do đó chúng tôi đã tới trước, chờ nghênh tiếp quí vị. Mời hai vị theo tôi vào điện để chúng ta cùng bàn bạc.
Tế Phật:  Đa tạ Sơ Giang Vương đã tiếp đãi chúng tôi một cách nồng hậu. Dương Sinh, mình theo Sở Giang Vương vào trong điện.
Sở Giang Vương:  Mời hai vị vào nhà hội nghỉ ngơi một chút. Tướng Quân mau dâng trà.
Dương Sinh:  Đa tạ, đêm nay thầy trò chúng tôi tới quấy rầy là vì muốn được giải toả những điều thắc mắc, vậy kính mong Sở Giang Vương trình bày cho chúng tôi được rõ sự tìh của lưỡng điện.
Sở Giang Vương:  Quá khách sáo, bản điện sẽ tường trình các sự việc của mười điện địa ngục, sở hình phạt chính thức, phàm những vong hồn từ Đệ Nhất Điện giao tới, công tội đã xét xử tỉ mỉ. Còn lại tội hồn ác độc xảo quyệt, vì lúc ở thế gian nó đã quen thuộc với tánh đó rồi, nên bây giờ âm phủ chỉ tạm sửa trị căn bệnh của nó mà thôi; bởi vốn biết nó chẳng thể giác ngộ. Những tội hồn này lúc tới bản điện, bản điện phải đêm sổ lý lịch của âm phủ ra đối chiếu với những tội mà nó đã phạm, nhất nhất đều tỏ tường. Nhân vì tình trạng thế gian đổi khác, nên địa ngục cũng phải đội mới và tăng thêm nhiều nhà ngục, cho nên nói "Thời thiên pháp diệc thiên" (Thời đổi pháp cũng đổi). Nhiều hình luật ở cõi âm cũng phải sửa chừa để đáp ứng nhu cầu thời đại mới, hầu sửa trị nổi những kẻ không tuân theo khuôn pháp.
Tế Phật:  Sự thay đổi của lý số, thành tượng ở trời, thành hình ở đất, nhân gian cũng theo cảnh vật mà biến đổi. Bóng thiên đường địa ngục tức khắc hiện hình, nên nhất cử nhất động của người đời, một gốc cây một, ngọn cỏ ở thế gian, trời như tấm gương lớn lập tức phản chiếu ra. Địa ngục lại do gương trời phản chiếu, một mực trong sáng rõ ràng. Đừng ní là khoa học tiến bộ, quỉ thần có thể tiêu diệt, thế nhân ỷ hữu hình muốn thắng vô hình, mới hay rằng vô hình chủ tể của hữu hình. Tiên  Phật là chủ động lực trong cõi tối tăm mà người chỉ là bị động ở ngoài cõi sáng sủa.
Dương Sinh:  Nguyên lai là như vậy. Thế nhân đều cho địa ngục là cõi ta không thấy được, kỳ thực lại hiển hiện rò ràng ngay trước  mắt ta thật l là kỳ diệu, quả là đáng sợ. Bõng dưng thân tôi tới được một thế giới mới hoàn toàn khác lạ.
Sở Giang Vương: Ta vì công việc bề bộn, chẳng tiện giúp đỡ nhiều, nhờ Tướng Quân dẫn Dương Thiện Sinh đi thăm các ngục được chăng?
Tướng Quân:  Xin tuân lệnh.
Dương Sinh:  Nhưng các vong hồn ở trước điện kia, có kẻ cổ mang gông tay bị xích, giống như các tội phạm ở dương gian thật đáng thương. Diêm Vương đăng đàn xử án, đập bàn la hét, y hệt người nông phu chửi mắng trâu bò.
Tướng Quân:  Thời giờ eo hẹp, xin Dương Thiện Sinh chớ có lan man, mau theo tôi rời khỏi điện.
Tế Phật:  Đi thôi, đừng ngó nữa.
Dương Sinh:  Nơi đây đám đông tụ tập, không một tiếng chim kêu. Họ đang làm chi vậy?
Tướng Quân:  Vì hiện thời đúng là lúc Tam Tào Phổ Độ nên Bồ Tát Địa Tạng Vương đều cho thiết lập tại mỗi điện một sở giảng đạo, phàm tội hồn trong ngục còn có thiện căn, trong lúc thụ hình còn tỏ ra tốt lành, đều có thể lần lượt tới sở giảng đạo, lắng nghe Tiên Phật thuyết pháp, do đó họ mới thận trọng bước nhè nhẹ, không dám gây tiếng động. Chắc nhà ngươi cũng thấy họ đang lục tục kéo vào.
Dương Sinh:  Thì ra dịa ngục cũng độ hồn quỉ mà giảng kinh thuyết pháp. Có thể so sánh với dương gian, khắp nơi thuyết lập đền thánh giảng cơ để phát huy đạo giáo. Kẻ tu đạo tại gia không thiếu, hiện thời Tiên Phật quá từ bi, không quản gian khổ giáng xuống cõi phàm trần, địa ngục để cứu độ chúng sinh tại chốn dương gian và quỉ hồn nơi địa ngục.
Tế Phật:  Mình hãy theo chân đám quỉ hồn kia mà tiến vào.
Dương Sinh:  Thưa rất phải. Trên cửa lớn có một cái biển đề " Nhất Điện Giảng Đạo Sở" (Sở giảng đạo điện số một). Mỗi quỉ hồn vào cửa tất phải tới gian phòng nhỏ ở bên cạnh, giống công xương, kêu là "Thủ Vệ Thất" báo cáo, rồi sau mới vào trong điện.
Tướng Quân:  Đây là nơi cư trú của Tướng Quân giữ cửa, chuyên phụ trách việc kiểm soát các tội hồn ra vô ra. Nếu như không có giấy chứng nhận được phép tới dự hội của các tiểu ngục đều không được vào cửa. Tôi phải tới trước để báo cáo về việc quí vị tới thăm với mục đích để viêtsách. Hai vị chờ tôi một lát tai đây... Tôi đã báo cáo và ghi tên quí vị xong, mời theo tôi vào trong giảng đường, ngồi chiếu trên, đợi Tiên Phật giáng lâm.
Tế Phật:  Lúc này xe pháp chơ Nam Hải Bồ Tát Quan Thế Âm, Dương Sinh hãy quỳ lạy đón chào.
Dương Sinh:  Thưa tuân lệnh ....Quân Âm Đại Sĩ đã lên đài chuẩn bị thuyết pháp. Trong nhà giảng các ghế ngồi cũng cùng một kiểu ghế  học trò ở nhà trường thế gian, có khoảng hai ngàn người, tất cả đều lộ vẻ vui mừng. Quan Âm Đại Sĩ ngồi trên toà sen, toàn thân lụa trắng, cầm cành dương liễu nhúng nước cam lồ trong bình Tịnh Thuỷ rẩy xuống. Xin hỏi ân sư như vậy có dụng ý gì?
Tế Phật:  Mưa pháp nhuần thấm, nước cam lồ rưới khắp, có duyên tự nhiên được độ, biểu thị lòng trời từ bi, không phân biệt tứ sinh lục đạo. Chỉ cần chịu quay đầu, chịu sửa lỗi để tự làm mới mình thì điều được thuyền từ tế độ, đó là đại nguyện của Quan Âm Đại Sĩ. Thôi chớ hỏi nữa, hãy lắng nghe Quân Âm Đại Sĩ thuyết về pháp "Cứu Khổ Cứu Nạn".
Quan Âm:  Bữa nay có Dương Thiện Sinh cùng Phật Sống Tế Công thuộc Thánh Hiền Đường Đài Trung tham dự buổi hội, ta rất vui mừng. Mong rằng sau khi  nghe ta thuyết pháp, trở lại trần gian Dương Thiện Sinh sẽ tận lực khuyên can giáo hoá người đời. Quí Hiền Đường vì phổ hoá thế nhân, tất cả đệ tử hiến trọn tâm lực, hy sinh  tất cả, tạo được thuyền từ, quảng độ thiên hạ chúng sinh, tinh thần thật đẹp đẽ, tương lai ắt thành quả vị thánh hiền. Mong gắng sức  thi hành.
Tế Phật:  Dương Sinh mau lạy ta lời khuyên từ ái của Đại Sĩ.
Dương Sinh:  Cảm tạ những điều Quan Âm Đại Sĩ chỉ giáo, khi trở lại Hiền Đường con sẽ chuyển lời dạy này đến toàn thể bạn đạo để khỏi phụ lòng trông cậy của Đại Sĩ.
Đại Sĩ:  Bây giờ bắt đầu dài thuyết pháp: "Người từ vô thuỷ tới nay sống sống chết chết, mà hình thể tuy chết, tính linh bất diệt. Hôm nay các ngươi tới âm phủ, vẫn chưa liễu ngộ thân huyễn ảo là giả, tính huệ giác mới là chân. Các  mối tình ái khó xả, oán thân không dứt, phải liễu ngộ thế giới như mộng ảo, duyên thân thuộc là do nhân quả tự thành, báo ứng tuần hoàn một cưỡng một thuận, không thể lại si mê chẳng ngộ. Như ý niệm trong đâu không dứt tính đời trong tâm không diệt, sẽ mãi mãi luân hồi. Nay gặp lúc mạt pháp, lòng người điên đảo, gốc huệ thui chột, hai nhi ra đời thông minh khôn khéo. Nói ra thì sẽ lộ thiên cơ, nhưng lửa đèn trước gió khó giữ cho cháy được lâu, bởi vậy thói đời ngày một nhiễm, chân bản tính dễ mất . Cho nên dẫu thông minh tự ngộ, tuệ quang cũng bị lu mờ, làm thuơng tổn thiên lý, hành động thất dức, bất nhân cứ tăng thêm mãi. Thế nhân vì hỗn loạn, nhân luân đồi bại, các người là những kẻ rơi xuống huyệt sâu, thân thịt đã mất, nghiệp đeo theo. Phải hiểu là bóng theo người, chớ nói là không có ánh sáng mà ảnh không hiện . Mổi nghĩ mỗi nhớ cơ quan tâm thần đều phát sinh ảnh hưởng, nghiệp chướng lập tức buộc thân. Giờ đoạ chốn tối tâm, vẫn còn một điển lương tri chưa đen, phải biết sám hối lỗi lầm. Nay ta khuyên các ngươi liễu ngộ, cố gắng chịu sự hành hạ của hình phạt để tội ác tiêu tan. Ráng chịu đựng thống khổ, dẹp bỏ lòng oán thân, ta sẽ tới cứu độ". giang xong.
Tế Phật:  Mau tiễn xa giá .
Dương Sinh:  Tuân lệnh.Đa tạ lời vàng của Quan Âm Đại Sĩ ....Toàn thể quỉ hồn đều quì lạy xa giá. Nhiều kẻ khi nghe xong cảm động, khóc than lệ chảy.
Tế Phật:  Đại Sĩ thương xót quỉ hồn, ban lời vàng ngọc để khuyên răn, vỗ về, quả đã phát bồ đề tâm, mong thiên hạ chúng sanh hiến  thân ngộ đạo. Nếu như còn có kẻ tiếc thân, chẳng sớm tu đạo, khi chết tới địa ngục chịu khổ nghiệp, rồi sau mới tu luyện lại, hẳn là khó khăn  gấp bội. Thời giờ eo hẹp, Dương Sinh  sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Tướng Quân:  Bản điện có điều chi khiếm lễ, kính xinTế Phật cùng Dương Sinh tha tội.
Dương Sinh:  Ở đây tôi là người phàm, cớ sao lại nói: "xin tha tội", thực quá hạ mình. Xin hỏi lại ân sư, các điện ở địa ngục đều thiết lập các nơi giảng đạo? Cuối cùng tới ba giờ tội hồn mới có thể hết tội mà thành đạo?
Tế Phật:  Các sở giảng đạo do các điện thiết lập là cấp thất nhứt, cốt để khảo nghiệm tâm tính các tội  hồn xem sự giác ngộ nông hay sâu, sau đó còn có sở giảng đạo cấp cao hơn để họ tu luyệtn lại. Thơi đừng hỏi thêm nữa, thời giờ đã muộn, mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại Hiền Đường, xin đa ta sự tiếp đãi của Tướng Quân.... Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI MƯỜI MỘT
 DẠO ĐỊA NGỤC BÙN PHÂN NƯỚC TIỂU
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 3 tháng 9 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
Tĩnh phủ phiên khai bối diệp thư
Tâm vô quản ngại lạc hà như
Hồng trần nan nhiễm liên hoa thể
Tiên Phật thiên tòng sanh tử trừ.
Dịch:
Tay sạch lật tờ lá bối kinh
Tâm không ràng buộc khổ xa mình
Bụi hồng khôn nhuốm ta sen trắng
Nối gót Phật Tiên vượt tử sinh.

Tế Phật:  Sinh tử là việc lớn của con người, nên khó tránh nổi hai chữ tử sinh, bởi vậy Trang Tử nói: "Ngã bản bất nguyện sinh, hốt nhiên sinh ư thế. Ngã bản bất nguyên tử, hốt nhiên tử kỳ chí" (Ta vốn chẳng muốn sinh, hốt nhiên sinh ra đời. Ta vốn chẳng muốn chết, hốt nhiên nạn chết tới). Dù biết con người không làm chủ được sự sống chết tuy nhiên cũng không thể nói con người hết phương cách làm chủ sự sống chết. Chỉ vì người đời không hiểu đạo sống chết, sinh từ đâu tới? Chết đi về đâu? Hẳn là hoang mang chẳng rõ, nên mới để cho Diêm Vương cai quản, nên nói: "Diêm Vương chú định tam canh tử, nan lưu hoạt đáo ngũ canh thiên" (Diêm Vương đã định canh ba chết, khó lòng sống nổi tới canh năm). Nay gặp kỳ phổ độ, nếu như người đời thấu hiểu, quay về  với lẽ thực, hoặc thao đại đạo, tu tâm dưỡng tánh, tự nhiên siêu snah khỏi chết, không trở lại luân hồi. Người đời nên quí báu cái thân mình đã được sinh ra, lại được sống ở giữa đất. Giờ này phút này, giác ngộ lo tu kể cũng chưa muộn. Dương Sinh sửa soạn dạo địa ngục.
Dương Sinh:  Đa tạ, ân sư chẳng quản  khó nhọc, ân cần tha thiết giáo hoá người đời, hiện tại làm cho người ta rất cảm động.
Tế Phật:  Trách nhiệm của ta là do người. Tiên Phật lấy từ bi độ người, cứu đời làm chức vụ của mình, mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, mời thầy khởi hành ...
Tế Phật:  Đã đến điện thứ hai, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Đêm nay sao lại đến chốn này?
Tế Phật:  Trước khi bái kiến Diêm Vương, sau thăm lại các ngục.
Dương Sinh:  Diêm Vương đã dời điện, phải tới gấp... Bái kiến Diêm Vương cùng chư vị Tiên Quan.
Diêm Vương:  Miễn lễ, mau đứng lên, mời Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh vào trong điện nghỉ ngơi.
Tế Phật:  Vì thời giờ eo hẹp, tôi thấy không cần thiết, chỉ xin dẫn Dương Thiện Sinh đi thăm ngục hình phạt là đủ rồi.
Diêm Vương:  Thôi được. Tướng Quân hãy hướng dẫn Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh đi thăm ngục.
Tướng Quân:  Xin tuân lệnh. Mời hai vị theo tôi.
Dương Sinh:  Ô, hơi hướm chốn này sao khó ngửi quá, hình như là mùi hôi thúi của phân va nước tiểu.
Tướng Quân:  Phía trước là "Phẩn Niệu Nê Địa Ngục" (Địa Ngục bùn phân nước tiểu) do đó nơi đây hôi thối, xin lượng thứ.
Dương Sinh:  Mùi xú ế càng đi tới càng nồng nặc, hô hấp cũng cảm thấy khó khăn, thưa thầy con  chịu không nổi, con không muốn đi nữa.
Tế Phật:  Đừng sợ hãi, ta có bảo vật này, con cầm lấy đi.
Dương Sinh:  Thưa vật này là vật gì?
Tế Phật:  Cái lồng lọc bụi bậm, con hãy đội lên, không khí tự nhiên trong sạch, mùi xú ế nào cũng tan biến.
Dương Sinh:  Thực quá hay, chẳng còn ngửi thấy mùi vị gì nữa hết. A, phía trước có treo một tấm bảng gỗ, trên đề Địa Ngục Bùn Phân Nước Tiểu, tiếng khóc than từ phía trong vọng ra. Nhìn vào thấy đầu người nhấp nhô, hai tay quờ quạng, giống  như bơi lội.
Tướng Quân:  Đây chính là Địa Ngục Bùn Phân Nước Tiểu, mau tiến lại gần xem.
Dương Sinh:  Được được. Thưa ân sư không ngửi thấy mùi hôi thối hay sao?
Tế Phật:  Làm gì có mùi vị, ta đã thành Phật, đồ ô uế này, ta thấy cũng như không thấy, mùi của nó không hề xâm nhập khứu giác ta khác với người là kẻ phàm nhân, hễ thấy thanh sắc là bị xúc cảm và mê hoặc.
Dương Sinh:  Cái ao lớn này giống như biển rộng, không thấy bến thấy bờ. Trong ao có đủ cả già trẻ nam nữ, họ  ngụp lặn nổi chìm cùng cứt đái. Mỗi lần há miệng kêu la là lại nuốt thêm phân và nước tiểu. Thực quá dơ dáy! Thầy ơi! Con muốn ói!
Tế Phật:  Hãy kiên định tâm thần, đừng dể mùi ô uế ảnh hưởng tới tâm chí
Dương Sinh:  Quả thực tôi không hiểu nổi, xin hỏi Tướng Quân, những kẻ tới đây đã phạm phải tội gì mà bắt họ phải chịu cực hình này?
Tướng Quân:  Họ là những gái giang hồ, lúc sống chuyên bán thân lấy tiền, dụ dỗ con gái nhà lành đem bán cho khách phá trinh, cầm đồ cho vay nợ lãi. Ăn nhau người để cho bổ béo. Chân không lấm đất, chỉ dùng miệng lưỡi xảo trá để lường gạt người khác lấy tiền. Kẻ chơi bời dâm dục quá độ, kẻ làm chứng gian, nói trắng ra đen, Kẻ vờ kêu người chơi hụi rồi giựt hụi, hùn hạp buôn bán rồi giựt vốn. Kẻ làm quan ăn hối lộ. Kẻ đứng trung gian ăn lời. Kẻ lảnh xây cất nhà cửa ăn  bớt tiền công và vật liệu. Những kẻ lúc sống thân ô uế, nhiễm độc dùng mồm miệng không được thanh sạch, khi chết đều bị đày xuống ngục này để họ nếm  mùi hôi thối. Những vong hồn ở đây vạn phần thống khổ, thở hít toàn la` mùi phân và nước tiểu, mỗi lần mở miệng là có vật ô uế trôi vào, bụng vừa đối vưa khát, muốn ăn không có ái ăn. Những kẻ lúc sống ăn toàn đô dơ bẩn để sống, khi chết xuống địa ngục lãnh quả báo ứng, như vậy thì kể cũng xứng đáng. Do đó giữa đám bùn phân nước tiểu, họ càng cựa quậy để mong thoát khỏi thì lại càng bị chìm sâu.
Dương Sinh:  Thực đáng thương quá, hiện thời dương gian đã sử dụng cầu tiêu máy làm  mất hẳn mùi hôi thối, cùng các chất hoá học làm tiêu các chất độc, nhà giàu còn dùng dầu thơm để diệt mùi hôi. Nhưng họ lại tham lam ăn chận tiền tài không trong sạch, thân thể coi bề ngoài đẹp đẽ nhưng trong tâm lại nực mùi cứt đái dơ bẩn, nên bị đầy xuóng địa ngục này kể cũng hợp lý.
Tế Phật:  Dương Sinh nói rất phải, mỗi gia đình người đời sửa soạn giàu đẹp đường hoàng, mình mặc y phục lộng lẫy. Nhìn bề ngoài thấy sạch sẽ tươm tất, kỳ thực cái tâm bên trong chứa muôn ngàn mưu kế. Nào như chuyện đầu cơ trữ gian, chẳng hề mưu cầu chính đạo, có thể nói giống hệt mùi vị và hình dáng của phân cùng nước tiểu. Lúc sống tuy nhất thời  thời hưởng  thụ, nhưng khi tới địa ngục thì chuyện lại khác xa, bởi chỉ được ăn đồ dơ dáy để sống qua ngày.
Tướng Quân:  Không thể đồng tình với họ, mấy kẻ đó đều là loại sâu bọ đáng thương, giống như bọ trùng, chuyên ăn đồ dơ bẩn để lớn lên. Khuyên người đời phải quang minh chính đại, không được thấy tiền liền dùng thủ đoạn mưu gian để hại người. Những kẻ chuyên hành nghề bất lương để kiếm đồng tiền dơ bẩn, chắc chắn sau khi chết sẽ phải tới đây để trả nợ.
Dương Sinh:  Không rõ nhưng tội hồn này bao giờ mới hết khổ?
Tướng Quân:  Căn cứ theo tội của họ nặng hay nhẹ mà xử, nhưng tối thiểu cũng phải tới lúc da thịt của tội  phạm nát  nhừ. Tới lúc mãn hạn tù ở đây thì giao qua điện khác để xét xử các tội còn lại.
Dương Sinh:  Địa Ngục ngày nay thực sợ quá.
Tế Phật:  Thời giờ đã trễ, bữa nay cuộc hành trình tới đây ta thấy đã đủ. Dương Sinh sửa soạn tở lại Hiền Đường. Đa tạ Tướng Quân đã chỉ dạy. Cũng nhờ Tướng Quân thay mặt cám ơn Diêm Vương đã chiếu cố.
Dương Sinh:  Cái lồng con đang đội thưa có phải lấy xuống không?
Tế Phật:  Lên đài sen rồi mới được gỡ nó ra, còn không con sẽ chịu không nổi đâu.
Dương Sinh:  Thưa, con đã lên đài sen.
Tế Phật:  Con có thể lấy nó xuống, bắt đầu trở lại Hiền Đường. Gió cõi âm lạnh lẽo, uế khí trùng trùng, bụi hồng muôn trượng, chôn vùi biết bao anh hùng hảo hán. Khuyên người đời mau tu sửa để thoát khỏi cảnh địa ngục ưu sầu... Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI HAI
 DẠO ĐỊA NGỤC ĐÓI KHÁT
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 9 tháng 9 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
Cao ca nhất khúc vọng xuân phông
Nữu bãi yêu chi túc đạp trùng
Thế thái văn minh đa ám lộ
U hồn tận đoạ võng la trung.
Dịch:
Xuân về ngóng gió miệng ca vang
Uốn éo lưng tay cẳng đạp trùng
Tân tiến thói đời đường tối ám
Hồn đen lọt trúng lưới trời giăng.

Tế Phật:  Phải bôn ba cực nhọc để viết sách, vì ai khổ sở, vì ai phiền não? Ngã đường trần gian tuy người xe náo nhiệt nhưng đạo đức lại suy vi, phong tục ngày càng sa đọa. Tiếng khóc than của các vong hồn ở cõi âm rung chuyển cả núi non địa ngục. Thánh Hiền Đường phụng mệnh Ngọc Hoàng viết sách Địa Ngục Du Ký. Tả lại những hình phạt và thảm cảnh ở địa ngục là có ý dùng những cảnh ấy hầu giảng giải về chân lý để mọi người thấy rõ bến mê, cho nên sách này không phải là cuốn tiểu thuyết giải trí. Mong người đời hiểu rõ như vậy. Dương Sinh sửa soạn lên đường dạo địa ngục.
Dương Sinh:  Con đã sửa soạn xong, mời thầy khởi hành.
Tế Phật:  Người phàm được ngồi toà sen là một đặc ân, vậy Dương Sinh phải quí trọng sự ban thưởng này… Đã tới, mau xuống đài sen. Bữa nay mình thăm Ngục Đói Khát.
Dương Sinh:  Nơi đây như đồng hoang, bốn phía đều vắng bóng người, thưa mình đi hướng nào?
Tế Phật:  Không xa đây lắm, qua khỏi khúc đường gập nghềnh này là tới Ngục Đói Khát.
Dương Sinh:  Đã không có một bóng người thì hồn quỉ đi ngã nào mà vào được trong ngục?
Tế Phật:  Con nhìn về hướng bên trái hẳn rõ lý do.
Dương Sinh:  A! Quả nhiên thấy một con đường nhỏ về phía bên trái, có hai ba quỉ đầu trâu mặt ngựa đang áp giải tội hồn đi.
Tế Phật:  Chúng ta qua bên  phải để cùng đi với họ.
Ngưu Tướng Quân:  Người phàm ở xứ nào tự tiện đến đây?
Tế Phật:  Hãy mỡ mắt nhìn cho kỹ cũng chưa muộn .
Dương Sinh:  Vị Tướng Quân đầu trâu này xấu xí coi thật đáng sợ, tay cầm chĩa sắt, lưỡi sắt coi vẻ rất hung bạo. Không hiểu có tính làm dữ với mình không?
Tế Phật:  Đừng sợ, ta sẽ nói trắng ra cho hẳn rõ.
Ngưu Tướng Quân:  Hai vị là ai? Hãy nói mau, nếu không tôi sẽ trói lại, giải giao cho Chúa Công phân xử.
Tế Phật:  Tướng Quân, nhà ngươi làm âm binh được bao lâu rồi, tại sao không biết ta?
Ngưu Tướng Quân:  Tôi đảm nhiệm  chức âm binh chỉ mới ngoài hai tháng, nhất thiết thi hành lệnh trên, phàm những ai không có giấy phếp đều bị bắt giữ, đó là trách nhiệm của tôi.
Tế Phật:  Tôi là Phật Sống Tế Công, còn vị nầy là môn sinh của Quan Thánh Đế Quân, thuộc Thánh Hiền Đường Đài Trung ở dương gian, phụng chỉ dạo địa ngục viết sách khuyên đời. Bữa nay, muốn tới Ngục Đối Khát nhưng mới đi  được đến đây. Tướng Quân phải biết là chúng tôi có Nọc Chỉ tuỳ thân, không được ngăn cản, trái lệnh nhà  ngươi sẽ lãnh hình phạt.
Ngưu Tướng Quân:  Ngọc Chỉ trước mắt, xin cúi lạy nghinh chào. Thì ra người dương thế vốn kêu ngài là vị hoà thượng khùng Tế Công. Tôi cũng tới dương gian cách nay cũng không lâu, chưa từng được diện kiến Đại Phật, xin ngài cùng Thiện Sinh xá tội. Nếu như muốn đến Ngục Đói Khát, vượt qua trái đồi nhỏ kia là tới, tôi xin dẫn hai vị đi.

Tế Phật:  Hay quá. Dương Sinh chúng ta hãy theo Tướng Quân đi đến đó.
Dương Sinh:  Tốt lắm. Con đường nhỏ này đầy đá vụn, mặt đường nhiều ổ gà ngập nước, đi thật là khổ cực, gan bàn chân nhứt nhối như thể kim đâm. Phía trước có thêm hai vị Tướng Quân khác, họ áp giải một phụ nữ, nhìn cách trang sức có vẻ rất giàu có nhưng chân lại bị xiềng. Bà ta tới đây vì tội gì vậy?
Tế Phật:  Những kẻ giàu có ở chốn dương gian hưởng thụ quá nhiều, không tiếc ngũ cốc, mặc sức vứt bỏ thực phẩm, ăn uống quá no nê thừa mứa, do đó bị áp giải tới Ngục Đối Khát này để có dịp cho sống và hiểu cái khổ của sự đói khát.
Dương Sinh:  Quả đồi này không cao, cây cối tốt tươi, mọc đầy lâu cùng loại cây dây leo, giống hệt đồi ở dương thế, trên đồi chỉ có một con đường nhỏ, vừa đủ ba người đi lọt.
Tế Phật:  Qua khỏi đồi này, con nhìn về phía trước sẽ thấy Ngục Đói Khát thiết lập ở dưới chân đồi.
Dương Sinh:  Con thấy rồi, vách ngục bốn phía toàn bằng gang cứng, sơn đen, có then cài, đã tới chân đồi rồi .
Ngưu Tướng Quân:  Quí vị chờ tại đây một lá tôi vào báo cáo trước.
Dương Sinh:  Bốn chữ Địa Ngục Đói Khát được khắc sâu vào bảng gỗ nhìn không rõ ràng lắm, hai bên có binh tướng canh phòng cẩn mật. Người đàn bà áp giải đi trước đã bị dẫn vào trong ngục .
Tướng Quân:  Tôi đã vào trong báo cáo với quan coi ngục, mời hai vị theo tôi.
Ngục Quan:  Hoan Nghênh Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiên SInh thuộc Thánh Hiền Đường đã hạ mình tới thăm. Chậm ra nghinh tiếp, thất lễ quá, xin tha tội.
Tế Phật:  Không có chi, chúng tôi tới đây quấy rầy, nhân vì Thánh Hiền Đường phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, tôi dẫn linh hồn Dương Sinh xuống  âm phủ quan sát  rõ tình hình, để rồi viết thành tài liệu để khuyến cáo người đời, bữa nay tới đây, mong Ngục Quan chỉ dẫn nhiều cho.
Ngục Quan:  Bản ngục là Ngục Đói Khát trực thuộc Đệ Nhị Điện, tôi hướng dẫn Dương Thiện Sinh đi thăm. Mời Tế Phật lưu lại đây uống trà nghỉ ngơi.
Dương Sinh:  Hay, tôi theo Ngục Quan đi ....nhà ngục này, mỗi gian lớn bằng ba cái chiếu, những kẻ bị giam giữ trong đó, tuy mình bận quần áo đẹp đẽ, nhưng vẻ mặt tại sao lại vàng võ ốm o, miệng không ngớt oán than?
Ngục Quan:  Những người đó đều là các thương gia ở thế gian, ăn mặc dư thừa, vung tiền như rác, không biết dè sẻn, đối với kẻ nghèo khổ hay ăn xin, không hề có lòng thương xót, sau khi chết đều bị đày xuống ngục này. Tôi kêu một tội hồn ra đây để nhà người hỏi han họ.
Dương Sinh:  Xin hỏi tiên sinh, cớ sao phai tới đây chịu tội?
Nam Tội Hồn:  Tôi lúc sinh tiền mở công xưởng để kinh  doanh, và buôn bán phát đạt, kiếm quá nhiều lời. Bởi quan hệ việc buôn bán, hàng ngày phỉ thù tiếp xã giao, nhà hàng, khách sạn, cao lâu chơi bời, mỗi bữa tiệc xài phí cả chục ngàn đồng cũng không tiếc, nhưng  đối với việc phúc lợi của nhân viên lại khắc nghiệt  vô cùng, nên các công nhân thường oán hận. Nếu như có những đoàn thể từ thiện đến nhờ giúp đỡ, tôi đã chỉ cho được khoảng $500, thực quả thiếu thiện tâm. Như có kẻ ăn xin hoặc bạn bè thân quyến nghèo túng tới mượn tiền, thì sai đầy tớ ra nói dối là đi vắng. Trong nhà thì ăn uống sơn hào hải vị, chẳng hề tiết kiệm, ngoài thì nuôi nhiều tình nhân, xây nhà vàng để chứa người đẹp, mỗi tháng tiêu phí hàng bao chục ngàn đồng. Hai năm trước đây chết vì  bệnh áp huyết cao, liền bị án đầy xuống Ngục Đói Khát, tuy mặc đồ Âu phục nhưng không có sơn hào hải vị mà ăn, mỗi tuần lễ chỉ được một chén rau, chén cháo thay cơm, ba ngày đã đói lã hôn mê. Âm binh đầu trâu mặt ngựa lấy nước xối cho tỉnh lại, thật là thống khổ vô cùng, bụng đói, ruột quặn từng cơn chịu không nổi, ngài có đồ ăn, xin làm ơn cho tôi chút ít, tôi đói lắm.
Ngục Quan:  Quân súc sanh, mau lại đây không được làm rộn, mi tự làm tự lãnh, hưởng thụ quá nhiều không được kêu khóc. Rồi kêu nữa tội ra, mau khai rõ những tội mà ngươi đã phạm ở chốn trần gian cho Thiện Sinh đây nghe.
Nữ Tội Hồn:  Khi còn sống toi là vợ của một người  giàu có, nhân chồng tôi mở công xưởng kinh doanh, chuyên xây cất nhà cửa, nên từ nhà nhỏ mà được ở nhà lớn. Vì nhiều  tiền nên ngày càng nhiễm thói bất lương, học đánh bài, ngày đêm say mê cờ bạc, quên trách nhiệm gia đình. Thường hẹn bạn bè tới vũ trường, hoặc ăn uống  thâu đêm, một đời ăn chơi cờ bạc hoang phí, không hề tiết kiệm tiền bạc. Đối với việc cứu tế người nghèo hoặc việc từ thiện thì lơ là, không đếm xỉa đến. Suốt đời hưởng thụ, sau khi chết, vua địa ngục không thương, phán giao tôi đến ngục này chịu tội, hiện thời đói khát chịu không nổi.
Dương Sinh:  Nữ tội hồn này, nét mặt hiện rõ sự thống khổ, đưa ngón tay vào mồm nhai nhai, y như đói khát quá chịu không nổi.
Ngục Quan:  Mau vào trong ngục.
Dương Sinh:  Mong Ngục Quan nói rõ, tôi thấy tội hồn trong mấy gian nhà ngục, bất luận nam nữ tuy bận đồ đẹp đẽ, nhưng tại sao họ lai như lũ ăn mày bên đường, rên xiết không ngừng, đầu tóc rối bời, nhai ngón tay cho đỡ đói.
Ngục Quan:  Phàm người đời phá hai của trời, không tiếc ngũ cốc, tiêu xài hoang phí không biết tiết kiệm. Có tiền chỉ lo tiêu pha hưởng thụ cho riêng mình, không bố thí cho người nghèo khổ, hoặc làm việc công ích. Đàn  ông có tiền thì bỏ bê vợ con nhà cửa, lập tổ uyên  ương ở ngoài sống với vợ bé, tình nhân. Hoặc đàn bà một sớm nổi danh, như ca sĩ hiện nay thì coi chồng mình không ra gì, tự ý ly hôn, hưởng thụ danh vọng giả tạo thế này thế kia. Phàm khi giàu có thì thay lòng đổi dạ, sinh ra nhiều hành vi đê tiện. Sau khi chết tất cả đều sa xuống địa ngục này chịu khổ; mong kẻ hưởng sung sướng, phú quí, vinh hoa ở thế gian, nên bớt chút tiền của giúp người, không nên xài phí cho riêng mình nhiều quá. Nếu không vậy, ăn uống chơi bời thoả thích, phước hết thì hoạ đến. Kiếp này được hưởng vinh hoa phú quí là do kiếp trước tu nhân tích đức mà đước phước báo. Nếu được phú qui nhưng không dâm dục, lại làm điều thiện để tích đức giúp người giải thoát tai nạn, thường làm chuyện "cứu nhân độ thế" hoặc in kinh sách khuyên đời, sau khi chết không những nhân gian lưu truyền tiếng tốt, mà hồn còn được lên cõi cực lạc, được người đời nhang khói.
Tế Phật:  Thời giờ đã hết. Dương Sinh ta hãy sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Ngục Quan:  Nếu nhưng có điều chi thất thố, xin lượng thứ.
Dương Sinh:  Thưa vâng. Đa tạ Ngục Quan đã giảng giải rõ ràng rành mạch. Chúng tôi sắp trở lại Hiền Đường.
Tế Phật:  Mau lên đài sen... Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI BA
 DẠO CẦU NẠI HÀ THĂM NGỤC VŨ TRÌ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 19 tháng 9 năm Bính Thìn (1976)
 Thơ:
Nại Hà kiều hạ tội hồn đa
Chính lộ phất hành trụy võng la
Hợp lý dương tu bồ đề đạo
Tu thân lập đức hoá can qua.
Dịch:
Chân cầu Hà Nại tội hồn đông
Đường thẳng không đi tiềm lưới giăng
Đáng lẽ phải theo lời Phật dạy
Sửa mình nuôi đức hết đao cung.

Tế Phật:  Các môn sinh của Thánh Hiền Đường đã nhận ra chân lý mà tu đạo, nên dầu khó nhọc vẫn không nản lòng, tinh thần đó thật đáng mừng. Nay được dịp phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký là do Ngọc Hoàng một lần nữa khẩn thiết ra lệnh dạo địa ngục viết nên cuốn sách muôn đời kỳ lạ, công khuyên răn giáo hoá đời đời bất tuyệt, do đó ta rất vui mừng hướng dẫn Dương Sinh dạo địa ngục.
Dương Sinh:  Đa tạ sự dạy dỗ của ân sư. Toàn thể môn sinh của bản Hiền Đường đang dâng hiến tất cả tinh thần lẫn vật chất, ra công phục hưng văn hoá đạo đực, in tặng kinh sách dạy điều thiện để phổ biến giáo hoá người đời, cầu nguyện Trời xanh phù hộ để giảm bớt công lao cực  khổ của những bạn cùng tu.
Tế Phật:  Có lòng tu đạo bao giờ cũng gặp  hoàn cảnh khó khăn, ta từ trong cõi tối chuyển hoá thiên cơ, để cho các con được thuận buồm xuôi gió. Bữa nay chuẩn bị dạo địa ngục.
Dương Sinh:  Thưa, con đã lên đài sen.
Tế Phật:  Đã tới, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Thưa đây là đâu? Tại sao tiếng khóc than không dứt? Phía trước có một cây cầu người đi trên cầu đều trượt chân rớt xuống, tiếng kêu khóc vang trời.
Tế Phật:  Đây là cầu Nại Hà. Người trần phàm tới khi chết phần lớn phải qua cầu này.
Dương Sinh:  Cầu này lắc lư không ngớt, chẳng khác nào loại cầu treo, trên cầu có khá nhiều quỉ đầu trâu, mặt ngựa áp giải tội hồn đến giữa cầu liền đẩy xuống, thật quá tàn nhẫn.
Tướng Quân Giữ Cầu:  Vừa nhận  được điện văn của giáo chủ Địa Tạng Vương, được biết Phật Sống Tế Công hướng dẫn Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường Đài Trung trên dương thế xuống thăm bản âm ti để viết sách Địa Ngục Du Ký, hầu khuyên răn giáo hoá người đời, xin tha lỗi cho sự đon tiếp chậm trễ.
Tế Phật:  Không sao, không sao. Chính chúng tôi mới làm phiền quí vị.
Tướng Quân:  Mời hai vị đi theo chúng tôi, chúng tôi sẽ dẫn quí vị lên cầu.
Dương Sinh:  Tôi chẳng dám lên, đứng ở đầu câu nhìn cũng đủ rồi.

Tế Phật:  Đừng sợ, hai Tướng Quân trâu ngựa sẽ không đẩy con xuống cầu đâu.
Dương Sinh:  Vậy thì được, xin thầy nắm tay con cho thật chặc, cái cầu này đong đưa dữ quá, con cứ sợ té xuống.
Tế Phật:  Dĩ nhiên thầy phải nắm chặc tay con, mau lên cầu.
Dương Sinh:  Ái a! Ái a! dưới cầu toàn là rắn, hàng mấy vạn con, gồm đủ loại, có con mãng xà lớn bằng  cây cột, há miệng lè lưỡi, nhiều người rớt xuống cầu, bị rắn ăn thịt kêu la thảm thiết, hồn vía tôi cũng lên mây, hết dám ngó. Thầy ơi! Mình về thôi.
Tướng Quân:  Xin Dương Sinh đừng sợ, dưới cầu Nại Hà này là hố rắn độc. Phàm những ai tâm địa xấu xa, lường gạt tiền bạc và nhan sắc, gây chuyện thị phi, giết chóc, tạo tai hoạ cho người khác để mua vui. Sau khi chết ruột những kẻ bất nhân đó sẽ hoá  thành những con rắn ác độc này . Tội hồn đi tới cầu Nại Hà tự nhiên tâm hoảng kinh, chân tay bủn rủn, bị hai Tướng Quân trâu ngựa đẩy xuống cầu cho những con rắn độc  đó ăn thịt. Những kẻ rớt xuống cầu cố vùng vẫy để tìm đường thoát , nhưng hễ cựa gậy liền bị độc xà nhai ngấu nghiến.
Dương Sinh:  Ôi kinh quá, nhìn thấy rắn độc là hết hồn rồi, nếu như kẻ nhát gan, quỉ đầu trâu mặt ngựa chẳng cần phải đạp, cứ đi tới  giữa cầu tức khắc hôn mê, không còn làm chủ được lục thần, tự động rớt xuống .
Tế Phật:  Chúng ta mau vượt qua cầu này, bữa nay tội hồn quá đông khiến cầu đầy ghẹt, kẻ khóc người la thực là thảm thiết, ai bảo họ lúc sống làm chuyện bất lương ác độc, khiến bây giờ đi đứng run rẩy, rớt xuống cầu chịu hình phạt độc xà ăn thịt.
Dương Sinh:  Mau đi tới đầu câu, lòng con quá sợ hãi, thì ra cầu Nại Hà là như vậy, bên cầu không có lan can để nắm, đi qua tay lạnh chân run, lại nhìn thấy dưới cầu toàn là rắn độc, khiến người ta lạnh hồn, bủn rủn đôi chân.
Tế Phật:  Gan mật con quá nhỏ, ta cho con uống ba viên thuốc định thần, mau uống đi để cho mắt khỏi xanh xao, mồ hôi hết chảy... Mau từ giã Tướng Quân giữ cầu, chúng ta còn phải thăm nơi khác.
Dương Sinh:  Đa tạ Tướng Quân giữ cầu đã tận tình hướng dẫn, vì thời giờ có hạn, không lưu lại lâu hơn được.
Tướng Quân: Xin tạm biệt.
Tế Phật:  Dương SInh mau lên đài sen, chúng ta đi thăm nơi khác.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng mời thầy lên đường.
Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen. Ngục Vũ Trì trước mặt là ngục mới thiết lập ở cõi âm, thuộc quyền cai quản của Đệ Nhị Điện.
Ngục Quan:  Cung kính đón chào Phật Sống Tế Công cùng thánh bút Dương Thiện SInh thuộc Thánh Hiền Đường tới thăm. Tôi vưa nhận được chí dụ của Chúa Công, báo cho biế hai vị thân hành tới thăm bản ngục để viết sách khuyên đời, mời hai vị vào trong xem xét.
Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan. Xin hỏi Ngục Quan tại sao trong ngục lại có ánh đèn màu mờ ảo, tiếng chân nhảy, tiếng khóc than thảm thiết?
Tế Phật:  Những kẻ bị giam ở đây lúc còn tại thế làm vũ nữ hoặc ham nhảy nhót, vào trong xem rồi biết.
Dương Sinh:  Dạ, bên trong đầy cả nam lẫn nữ. Nam thì già trẻ đều có, bận âu phục chỉnh tề, thiếu nữ trẻ trung mặc  các thứ hàng lựa mỏng manh, đẹp đẽ. Cũng có đủ  các thứ người ngoại quốc, mỗi khi họ bước trên mặt sàn, lập tức kêu la, nhảy cỡn không ngừng, trai gái ôm nhau từng đoàn. Xin hỏi Ngục Quan đó là hình phạt gì vậy ?
Ngục Quan:  Phàm tại thế làm vũ nữ không chính đáng, hoặc mượn cớ khiêu vũ để ăn chơi, sau khi chết đều bị giam ở ngục này để họ hưởng thú vui khiêu vũ. Nhưng đến đây thì không được phiêu diêu quên mình, hoặc hưởng trọn thú khoái lạc hương sắc mê hồn nữa đâu. Trong ngục Vũ Trì ( Ao Khiêu Vũ) sàn nhảy được tạo bằng sắt nung đỏ nên rực sáng hừng hực. Nam nữ một khi đạp lên, tức khắc đau đớn vô cùng, khiến phải nhảy cỡn, lúc sống vui chơi khiêu vũ thì khi chết cũng lại nếm hương vị cũ, khó mà quên được. Gan bàn chân của mỗi kẻ bị phỏng sưng phồng, lở lét.
Dương Sinh:  Ngục Quan nói rất hợp lẽ đạo. Lúc sống ham khiêu vũ, khi chết cho họ nhảy đã đời, nhưng mỗi thời đại, trào lưu lại khác nhau, khiêu vũ không phải là hoàn toàn xấu, nó cũng có tác dụng làm cho thân thể cùng tâm hồn khoẻ khoắc. Do đó tất cả những kẻ khiêu vũ đều  phải tới đây chịu khổ  hình thì hoá ra luật pháp ở cõi âm chẳng thiên lệch lắm sao?
Ngục Quan:  Tôi đã nói rõ, không phải tất cả những người ưa khiêu vũ đều bị đầy ở đây. Kẻ bị phạt ở địa ngục là vì lúc còn sống muốn khiêu vũ để ăn chơi, hẳn là không phải lối khiêu vũ cốt để cho thân thể khỏe mạnh mà là đam mê nữ sắc. Con gái thì ham giao du rộng, đem thân cho người ta ôm ấp kiếm tiền một cách vô liêm sỉ. Sau khi khiêu vũ xong còn bằng lòng để cho khách dẫn ra khỏi vũ trường tìm nơi trao ân đổi ái, hoặc là lúc còn sống không vâng lời cha mẹ, đến những khiêu vũ trường sa đoạ, vui chơi nhảy nhót, hoang dâm vô độ. Nếu khiêu vũ để cho thân thể khỏe mạnh, tâm thần minh mẫn bản ngục đâu có xử phạt. Kẻ bị phạt giam vào ngục là kẻ dâm ô, làm thương tổn phong hoá, khuyên người đời đem tinh lực, tiền tai dùng vào việc giải trí lành mạnh, nếu không sau khi chết sẽ bị giải  tới "Ao Khiêu Vũ Địa Ngục" chịu cực hình.
Dương Sinh:  Nói thế mới hợp lẽ đạo, nếu không thời đại ngày một thay đổi, cứ ưa theo trào lưu mới, nước ta cũng có thuật làm cho thân thể khoả mạnh, người ngoại quốc cũng có lối của họ. Kẻ thụ hình tại địa ngục là mượn danh khiêu vũ để làm chuyện bất chính.
Tế Phật:  Bữa nay thời giờ đã cận, thầy trò mình phải trở lai Hiền Đường. Đa tạ Ngục Quan  đã chỉ dạy tỏ tường. Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Xin tuân lệnh. Cám ơn Ngục Quan đã chỉ rõ. Con đã sẵn sàng.
Tế Phật:  Trở về Hiền Đường... Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống dài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI MƯỜI BỐN
DẠO ĐỊA NGỤC GIÁ LẠNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 29 tháng 9 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
Hàn phong thích cốt tiệm sơ đông
Lạc thiện do như nhất thạch tùng
Vạn lạc sơn di thanh tuyết hải
Trú mai kính ngạo ngật cao phong.
Dịch:
Cắt xương gió lạnh lúc sang đông
Vui đạo gan bền tựa đá trông
Non chuyển ngàn xanh thành biển tuyết
Đỉnh cao mai trúc chẳng xiêu lòng.
Tế Phật:  Mùa thu qua dần, mùa đông khắc nghiệt đang tới, thời tiết thay đổi lạ kỳ, chúng sinh đau ốm ngày càng nhiều, là bởi không biết thích  ứng với khí hậu. Bữa nay ta đưa Dương Sinh dạo thăm Ngục Giá Lạnh ở cõi âm, cũng gặp cái cảnh gió lạnh thấu xương không hiểu con có chịu nổi hay không?
Dương Sinh:  Thưa ân sư, con vừa mới bị cảm, bữa nay trời lại giá buốt, con nghĩ để bữa khác hãy tới  Ngục Giá Băng. Bữa nay dạo thăm chốn khác, không rõ ý kiến của thầy như thế nào ?
Tế Phật:  Đâu có được, đã thông tri là mình dạo thăm Ngục Giá Băng xong xuôi rồi, nửa chừng chẳng thể thay đổi, như con sợ không chịu nổi lạnh, thầy cho con ba viên thuốc nguồn ấm này, uống  mau đi, không được kéo dài thời gian.
Dương Sinh:  Cảm ơn thầy đã ban cho con thuốc tiên...con đã uống xong. A, con cảm thấy khắp mình nóng ran, không còn lạnh nữa.
Tế Phật:  Mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sửa soạn xong, xin thầy khởi hành...
Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuyóng đài sen.
Dương Sinh:  Phía trước tại sao không có thấy một bóng người, chỉ thấy một trái núi hoang phủ tuyết trắng, hình như tuyết vừa rơi, không thấy cây xanh tốt, chỉ có ít cây  khô trụi lá, đây là chốn nào?
Tế Phật:  Nơi đây gần Địa Ngục Giá Băng, núi đó vì chịu ảnh hưởng băng lạnh quanh năm có tuyết, lạnh lẽo lạ thườn. Chúng ta không đi đường âm phủ nên không thấy bóng người, với lại mình ngồi đài sen bay trên không nữa. Con theo thầy đi tới sườn núi phía bên trái là mình gặp Địa Ngục Giá Băng.
Dương Sinh:  Chốn hoang vu này chẳng có đường sá chi hết, cây cỏ chết rụi vì băng, tất cả đều khô héo, càng đi tới càng cảm thấy giá lạnh, phải chăng vì ba viên thuốc tiên hết còn công hiệu?
Tế Phật:  Công hiệu của thuốc không hề bị giảm, vì tính dược của  thuốc tiên là quan hệ qua lại, đợi một lát sẽ thấy thân thể nóng trở lại, đủ sức chịu đựng nổi ba ngày, con cứ yên tâm, ta không nỡ để con đông lạnh, chết cứng đâu.
Dương Sinh:  Phía trước có một dãy phòng, đều làm bằng gỗ, sơn đen, trên nóc đầy hoa tuyết nỡ. Phía trước dựng hai trụ gỗ, giữa có tấm bảng trên đề "Địa Ngục Giá Băng". Trước ngục có  một lối đi hẹp ăn thông với các phòng, tại sao phía trong không có bày biện chi cả?
Tế Phật:  Ngục này thiết trí bằng băng lạnh, các tội hồn đều bị ướp lạnh, đông cứng lại, không cách gì trốn thoát nổi, cho nên không cần trang bị chi cả.
Dương Sinh:  Trên đường có vài âm binh áp giải chừng mười người vừa nam vừa nữ, không rõ có phải dẫn tới ngục này chịu tội không?
Tế Phật:  Đúng đấy, phía trước Ngục Quan và Tướng Quân đã tới, Dương Sinh sửa soạn vái chào.

Dương Sinh:  Kính chào Ngục Quan cùng Tướng Quân, chúng tôi phụng chỉ dạo địa ngục, xin các vị chỉ bảo tường tận cho.
Ngục Quan:  Miễn lễ. Chúng tôi vừa nhận được sắc chỉ của Chúa Công Sở Giang Vương, nên đã rõ Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường trên dương gian sẽ xuống thăm bản ngục cho thấu tỏ sự tình, để viết sách Địa Ngục Du Ký hầu thức tỉnh giáo hoá người đời. Mời hai vị theo chúng tôi vào thăm ngục.
Dương Sinh:  Xin đa tạ.
Tế Phật:  Chúng tôi vào thăm thẳng Ngục Giá Băng, chẳng cần vào trong nhà làm chi nữa.
Ngục Quan:  Cũng tốt.
Dương Sinh:  Ngục Giá Băng ở giữa trái núi, phía trong giống như hồ tắm ở dương gian, vì rất nhiều hồ ở xa nên ngó không rõ. Trong hồ có đủ cả gái lẫn trai, mình chỉ mặc áo lót, phần dưới nhìn không thấy vì bị băng đóng dính cứng, kẻ nào kẻ ấy mặt xanh ngắt, môi đen, tay run rẩy, không kêu khóc nổi nữa, chỉ còn rên rỉ thôi. Trước mặt có hai ông già, nhìn tôi với ánh mắt cầu khẩn thiết tha, hình như muốn nói với tôi điều gì. Thưa thầy, có cách gì cứu họ thoát khỏi cảnh khổ băng lạnh đông cứng không?
Ngục Quan:  Để tôi lôi vài tội hồn lên để Dương Sinh muốn hỏi gì thì hỏi .
Dương Sinh:  Tốt tốt. Xin hỏi lão tiền bối, ở dưới đó cảm thấy thế nào?
Tội Hồn:  Băng trời tuyết đất, chỉ mặc quần áo lót mỏng manh, tôi không còn đủ sức nói nữa. Thân thể đông cứng, sắp hết cầm cự nổi.
Ngục Quan:  Tướng Quân mau đem nước gừng cho nó uống để giúp đỡ nguyên khí.
Tướng Quân:  Uống mau đi, rồi cung khai hết các tội lỗi đã làm khi còn sống, để viết vào sách khuyến thiện hầu giáo hoá người đời đừng bắt chước làm chuyện bậy giống ngươi, để sau khi chết khỏi rơi xuóng địa ngục này.
Tội Hồn:  Tôi, lúc còn tại thế rất ưa thích sưu tầm tem thư, tiền xưa, đồ cổ các loại. Lúc 45 tuổi, kết bạn với một người cùng sở thích. Khi rảnh rang chúng tôi uống trà tâm sự, tình nghĩa thật đậm đà . Bỗng một bữa, bạn tôi phải ra nước ngoài, sợ những báu vật tem xưa tiền cũ, đồ cổ cất giấu sẽ bị đánh cắp, bèn nhờ tôi giữ dùm. Tôi vì một phút tham lam, đem tất cả đồ bạn gửi dời đi nơi khác. Khi người ấy trở về hỏi xin lại tôi các món đã gởi, tôi trả lời: "Khó nói quá, nửa tháng trước đây đã bị trộm đánh cắp mất rồi, tất cả những báu vật của tôi sưu tầm cũng bị nó lấy luôn không còn một món nào". Người bạn tri kỷ của tôi nghe xong, thốn tim buốt óc, than tiếc không dứt. Đã bị đánh cắp làm sao lấy về được, bèn bỏ luôn. Khi tới 56 tuổi, bị ung thư gan chết, hồn xuống âm phủ, dè đâu cõi âm đã biết rõ tôi giấu các món đồ đó ở nhà riêng. Khi đi qua đài gương soi ác nghiệp, những cảnh đó chiếu rõ lại, bị Sở Giang Vương ở Đệ Nhị Điện phán đày 5 năm ở ngục Giá Băng, hàng ngày chịu cảnh băng đóng cứng, thân lạnh thịt đông, đau đớn muôn phần, hối hận không còn kịp nữa. Xin người nói với Ngục Quan tha tội cho tôi sớm thoát khỏi cảnh khổ đau này, có được không?
Dương Sinh:  Xin Ngục Quan giảm bớt tội một hai phần có được không?
Ngục Quan:  Đây là luật âm phủ xử phạt, nếu không có lệnh của Minh Vương, tôi không dám sửa đổi. Bây giờ tôi có thể cho uống thêm  chút nước gừng cũng kể như là ưu đãi lắm rồi, không được cầu cạnh thêm gì nữa. Có thể hỏi thêm bà lão kia xem vì cớ gì mà bị đầy xuóng địa ngục này.
Dương Sinh:  Bà lão này bị đông lạnh chịu không nổi, ngã lăn ra đất, hỏi làm sao bà ta trả lời được? Tướng Quân cho bà ta uống chút nước gừng giải lạnh để hồi tỉnh lại.
Tướng Quân:  Được, uống mau đi, để còn trả lời những câu hỏi của Thiện Sinh, trái lệnh sẽ bị xử tội nặng thêm.
Tội Hồn:  Ôi! Tôi đau khổ quá rồi, cái lạnh giá băng giống hệt cái lạnh của nhà xác chuyên ướp  tử thi ở dương gian. Người thấy tôi toàn thân xanh mét, thê thảm không còn chút máu. Lúc sống tôi là tú  bà, chuyên nuôi em út, ẩn náu nơi nhà nhỏ, phòng dơ, chứa trên mười thiếu nữ, trong số đó có gái giang hồ, gái nhà lành, gái trốn học. Hàng ngày tôi bắt họ phải tiếp khách, nếu không phục tòng thì bị bắt giam, hoặc bị các tay du côn  chuyên dắt mối trừng trị. Trong số đó rất nhiều thiếu nữ được người nhà hoặc khách chơi chuộc ra, cứu thoát khỏi biển khổ, phục hồi lại sự tự do cho tấm thân, tôi bèn lớn miẹng đòi một số tiền to, có kẻ không đủ tiền chuộc thân suốt đời chôn vùi tuổi thanh xuân trong động buôn hương bán phấn. Lúc tôi 51 tuổi, vì hút xách rượu chè vô độ cho nên bị xuất huyết mà chết. Sau khi chết mới được rõ là đã bị Minh Vương giảm thọ 10 năm. Vì nghiệp ác quá sâu trước bị đầy ở Ngục Bùn Phân Nước Tiểu, chịu khổ 5 năm. Sau khi mãn liền bị chuyển qua đây tiếp tại Ngục Giá Băng 31 năm. Mãn hạn kỳ này chưa rõ sẽ còn bị tái giam ở những ngục nào? Từ khi chết tới nay, nào như chịu khổ vì bùn phân nước tiểu, băng giá lạnh buốt, hiện tại thê  thảm, tương lai khổ còn nhiều, chỉ biết oán hận chính mình đã tạo quả baoquá nhiều.
Ngục Quan:  Còn tội hồn sau chót này, mau đem chuyện đã làm ở cõi thế khai hết ra. Tướng Quân lấy nước gừng đổ cho nó phục hồi nguyên khí để nó nói cho trôi chảy.
Tướng Quân:  Tuân lệnh.....thưa đã giải hàn cho nó xong.
Dương Sinh:  Xin hỏi tiểu thư, vì cớ gì cô phải tới Ngục Giá Băng?
Tội Hồn:  Nói ra càng thêm xấu hổ, lúc 18 tuổi tôi theo một đoàn ca vũ, cùng các đoàn viên đi biểu diễn các nơi, thường là biểu viển thoát y để câu khán giả. Về sau vì làm ăn không khá, đoàn giải tán, bèn đổi nghề "gái đi khách" thường được kêu đi khách, hoặc biểu diễn thoát y cho khách coi, do đó làm quen với một thương gia giàu có, mướn nhà ở riêng làm vợ bé. Năm 36 tuổi vì hai người không hợp ý nên chia ly, có lần vì quẩn trí uống độc dược tự tử. Khi chết bị giam tại thành Chết Oan 5 năm, sau đó bị đày tiếp tại Ngục Giá Băng, đến nay đã 3 năm, còn 20 năm nữa mới mãn hạn. Hiện thời đau khổ quá mức, hàng ngày bị băng đóng, tay chân buốt cóng, khí lạnh thấu tim, hối hận không kịp nữa. Khuyên nữ phái ở thế gian, ngàn lần chớ nên đi theo con đường không chính trực của tôi.
Ngục Quan:  Tội hồn này, lúc sống không hành nghề lương thiện, chuyên vũ khoả thân, biểu diễn các màn dâm đang, phá hoại các phong tục tốt lành, lúc sống đã không chịu mặc quần áo tươm tất, sau khi chết đã bị xử đày ở ngục Giá Băng, khiến nàng cố tìm quần áo để che cho bớt lạnh nhưng chẳng được. Có tội thì chịu báo ứng, tội hồn nầy còn nhiều tội khác, sau khi mãn hạn ở đây, sẽ còn giải giao qua điện khác. Mong phụ nữ trên thế gian coi đó làm gương. Tướng Quân! Mau áp giải ba tội hồn này trở lại ngục.
Dương Sinh:  Địa ngục này sương trắng bốc lên như khói toả, thấy hiu hiu lạnh.
Tế Phật:  Đó là khói lạnh, khí lạnh toả ra đó.
Ngục Quan:  Phàm kẻ nào ở đời nhận tiền bạc, đồ vật của kẻ khác gởi mà lấy lén, chiếm làm của riêng. Mở nhà chứa điếm, không cho gái giang hồ hoàn lương. Lãng phí xa hoa quá mức, coi thường đồ nội hoá, mặc toàn tơ lụa nhập cảng để chứng tỏ mình giàu. Không biết dùng số tiền mua quần áo đó để giúp đỡ dân nghèo khỏi rét. Đàn bà thích mặc đồ hở hang, dùng toàn quần áo hở lưng, hở bụng, hở đùi cố ý phô trương thân xác để mê hoặc người ta v.v… Các loại người không sợ lạnh giá, những kẻ tham cầu trang sức, sau khi chết tất cả đều bị xử phạt, đày ở ngục Giá Băng để được hưởng cái thú vị của sự mát mẻ.
Tế Phật:  Bữa nay thời giờ đã cận, chúng tôi sắp trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh:  Đa ta Ngục Quan cùng Tướng Quân đã chỉ giáo. Mong sớm được gặp lại.
Ngục Quan:  Xin tiễn chào.
Tế Phật:  Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Thưa thầy con đã sẵn sàng, mình có thể trở về Hiền Đường...
Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI LĂM
 DẠO ĐỆ TAM ĐIỆN GẶP TỐNG ĐẾ VƯƠNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 9 tháng 10 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
Huy loan xiểng giáo trứ thư mang
Thực phỏng u minh tả cẩm chương
Địa ngục môn khai nghinh đạo khách
Tu chân hà tất uý Diêm Vương.
Dịch:
Phát huy đoạ giáo sách ra công
Hỏi chốn u minh viết tỏ tường
Mở cửa âm ti mời khách dạo
Thực tu hà tất sợ Diêm Vương.

Tế Phật:  Bữa nay dạo chơi âm phủ tới  Đệ Tam Điện, mười ngục của các điện chỉ cần thăm những ngục tiêu biểu chính cũng đủ. Nếu không vậy, đi hết mười cửa ngục sẽ mất  mấy năm. Vì quyển Địa Ngục Du Ký phải xuất bản sớm để hoá độ chúng sinh cho nên chỉ viết các phần quan trọng. Dương Sinh chuẩn bị dạo địa ngục, mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Xin vâng lệnh, thưa con đã sẵn sàng, mời thầy lên đường ....
Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Phía trước có một tấm bảng hiệu treo  trên lầu, y hệt các bảng quảng cáo trước lan can các cửa tiệm chốn dương gian, trên dán miếng giấy đỏ, có nhiều quan quân âm phủ bu quanh đọc, mình cùng đi tới coi thử xem viết gì?
Tế Phật:  Ta đã biết rồi, còn con muốn rõ hãy đi tới coi đi.
Dương Sinh:  Tại sao quan quân âm phủ thấy  mình tới họ đều lộ vẻ sợ hãi, tránh xa?
Tế Phật:  Vì họ biết con là người phàm, đích thân mang ngọc chỉ, nên tránh xa không dám đụng chạm, con thấy giấy đỏ trên lan can viết gì?

Dương Sinh:  À thì ra là ngọc chiếu của Thượng Đế nói rằng:
"U Minh Giáo Chủ thừa uỷ nhiệm Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn ra lệnh: Trẫm ngự ở điện Linh Tiêu, cai quản 3.000  thế giới, nắm quyền sinh sát ở chín cõi u linh, sáu đường luân hồi. Nhớ lại từ khi nguyên linh giáng thế đến nay, thời đại thượng cổ, lòng người hồn nhiên tính trời thuần hậu chân thật, cho nên được sinh làm người, sau khi chết về trời, vốn không thiết lập địa ngục. Đến  thời trung cổ lòng người dần dần ác độc, tính trời ngày càng nhiễm bụi trần, luân thường đảo lộn,các thứ ăn chơi được bày ra, do dó mà tự tạo địa ngục. Trừ những người giữ trung, hiếu, tiết, nghĩa cùng tu nhân tích đức luyện đạo ra, tất cả đều đắm chìm trong sáu cõi luân hồi là trời, người, atula, súc sanh, ngạ quỉ và địa ngục. Nay gặp buổi thế gian tồi tệ, lòng người quá nhiều tham dục, ham làm những điều quá tàn ác, các thói gian manh, dâm đãng, phạm pháp gia tăng. Chính khí nguyên linh của trời đất phú cho đã sa đọa, tự lãnh lấy tai hoạ, cho nên hoạn nạn không dứt. Trời vốn hiếu sinh, không nỡ để cho chúng sinh chìm đắm hết, cho nên phổ giáng chân đạo để dẹp tai ương, cứu giúp người lương thiện. Nay có Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trực thuộc sự cai quản của Châu Nam Thiên, Nam Thiểm Bộ  nhận lãnh sắc chỉ phát huy đạo giáo, trên kế tục nhân nghĩa của Khổng Mạnh, dưới thừa  tiếp đạo Phật chân tông, chấn hưng đạo đức văn hoá, phổ độ thiên hạ chúng sinh, sự nghiệp huy hoàng. Trẫm muốn cho người đời biết cảnh địa ngục ở âm phủ nên ra lệnh cho Thánh Hiền Đường viết cuốn sách quí Địa Ngục Du Ký, sai Phật Sống Tế Công dẫn thánh bút Dương Thiện Sinh dạo thăm mười điện, đem những hình phạt mắt thấy tai nghe ở các  ngục âm ti tiết lộ cho người đời rõ. Cùng lúc dạo chơi âm phủ, khai thị chân lý, phá trừ mê hoặc của chúng sinh. Trong thời gian viết sách, nếu như Phật Sống Tế Công dẫn Dương Sinh tới, quan quân các điện phải nghinh tiếp, hỗ trợ công việc viết sách để cuốn sách quí này sớm hoàn tất.
Ngày ngọc chỉ đến, các đạo phải tuân theo, nếu như vị phạm, sẽ bị nghiêm phạt chẳng tha. Nay ra lệnh.
Ngày 15 tháng 8 năm Bính Thình (1976)."
Dương Sinh:  À thì ra là sắc chỉ của Ngọc Hoàng ra lệnh cho các ngục ở âm ti.
Tế Phật:  Đúng đấy, muốn viết nên Địa Ngục Du Ký, ngoài việc giáng chỉ cho dương gian, còn phải thông báo cho cõi âm. Mau tới trước Đệ Tam Điện bái kiến Tống Đế Vương.
Dương Sinh:  Thưa Đệ Tam Điện còn cách đây bao xa? Trên đường chỉ thấy các vong hồn cùng âm binh lui tới, không thấy điện phủ.
Tế Phật:  Chẳng còn bao xa nữa sẽ tới, tiết kiệm thời gian, mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Dạ phải, xin thầy khởi hành.
Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen, phía trước là Đệ Tam Điện, mau tới vái lạy Minh Vương. Tống Đế Vương cùng các quan văn võ đều ra khỏi điện nghinh tiếp chúng ta.
Dương Sinh:  Đúng đúng. Xin ra mắt Tống Đế Vương cùng chư vị Tiên Quan. Hôm nay chúng tôi phụng chỉ dạo thăm âm phủ để viết sách, kính xin chỉ giáo tường tận cho.
Tống Đế Vương:  Mời Dương Thiện Sinh đứng dậy, xin chớ quá lễ độ, sớm được rõ quí Hiền Đường ra sức hoằng dương Thánh giáo, khuyến hoá được nhiều kẻ ác cải tà qui chính, cùng hướng dẫn được nhiều người tu đạo đạt thành chánh quả, từ lâu ngưỡng vọng. Mời hai vị vào trong điện nghỉ ngơi rồi đàm đạo.
Dương Sinh:  Cảm tạ Minh Vương khen ngợi, nhưng xấu hổ không dám nhận, tệ Đường từ Khổng Thánh Đường ra lãnh đạo tới giờ, toàn thể các môn sinh đều đồng tâm hiếp  lực, thay trời giáo hoá, chỉ gắng làm hết thiên chức mà thôi, đâu dám nhận là đức lớn.
Tế Phật:  Chớ quá khách sáo, chúng ta vào trong điện nghỉ ngơi.
Minh Vương:  Mời hai vị ngôi bàn ghế bằng gỗ thô sơ, không thể so sánh với sa lông êm ái trên dương gian. Tướng Quân mau đem trà mời hai vị.
Dương Sinh:  Đa tạ. Gian phòng khách này trưng bày nhiều đồ cổ rất thanh tịnh, trên tường treo đầy tranh thuỷ mặc, có rất nhiều sách đạo.
Minh Vương:  Đứng vậy (đúng vậy?), các quan viên của bản điện khi rảnh rang thường đến đây đàm đạo, bàn bạc suốt ngày. Các quan viên ở âm phủ là những người lúc tại thế chịu tu hành có đạo đức mới được đề cử, cho nên được ở vào hoàn cảnh như ý muốn, bởi vậy không phải cứ xuống địa ngục là khổ hết. Địa ngục như nhà tù ở dương gian, chỉ những kẻ phạm tội mới phải chịu khổ sở. Các kẻ tả hữu giúp đở tôi ở đây giống hệt các quan viên coi nhà giam ở trên dương thế, họ làm việc tự do. Cho nên những kẻ lòng không độc ác, lúc tại thế thường làm việc thiện, hồn đến cõi âm, chúng tôi đều lấy lễ mà đối xử. Điều này tôi rất mong thế gian tỏ tường. Nếu như lúc sống hành động gian manh, không theo chính đạo sau khi chết ắt xuống địa ngục, tay bị xiềng xích, cổ bị cùm gông, roi da đnáh đập, chẳng được hưởng cảnh thanh nhàn như ở đây.
Tế Phật:  Bữa nay đã hết giờ rồi, Dương Sinh sửa soạn trở lại Hiền Đường, đa tạ Minh Vương đã chỉ giáo, ngày khác có duyên hẳn còn gặp lại.
Dương Sinh:  Đa tạ Minh Vương cùng Tướng Quân đã hậu đãi, vì thời giờ eo hẹp chúng tôi phải về xin từ giã quý vị.
Minh Vương:  Miễn lễ. Kính tiển hai vị, mong bữa khác gặp lại.
Tế Phật:  Mau rời điện, sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh:  Thật là gấp gấp  gáp gáp, thực  tại thời gian quá ngắn.
Tế Phật:  Thôi chớ nhiều lời, chúng ta lên đường trở lại Hiền Đường ... Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI SÁU
 DẠO ĐỊA NGỤC MÓC MẮT 
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 10 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
 Hoàng tuyền lộ thượng bức nhân hàn
Thảm khiếu ai thanh cảm tỵ toan
Nhứt niệm chi sai di cổ hận
Dương gian thích thích tổng nan man.
Dịch:
Suối vàng đường sá lạnh run người
Tiếng khóc bi thương dạ ngậm ngùi
Một ý sai lầm ngàn thuở hận
Dương gian thận trọng chớ sai lời.

Tế Phật:  Mùa đông lại tới, tiết trời hết sức lạnh lẽo, nhưng các môn đồ của Thánh Hiền Đường lòng vẫn ấm áp không cảm thấy lạnh chút nào, thật khiến ta cảm động vô cùng. Nếu như sách Địa Ngục Duu Ký khi viết xong, lưu truyền muôn thuở, môn sinh cứ nối tiêp không dứt. Dương Sinh, bữa nay sửa soạn dạo âm ti.
Dương Sinh:  Đêm nay khí trời giá băng lạnh lẽo, đường âm phủ càng ảm đạm thê lương, xin ân sư ban cho con một viên thuốc tiên để trợ giúp nguyên khí, không rõ cao ý của thầy thế nào?
Tế Phật:  Được, ta lại cho con ba viên thuốc Ôn Nguyên, mau uống đi để trợ giúp dương khí, ích lợi cho việc dạo âm ti.
Dương Sinh:  Đa tạ ân sư... con đã uống xong, cảm thấy toàn thân ấm áp. Con đã lên đài sen, mời thầy khởi hành...
Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuóng đài sen.
Dương Sinh:  Thưa đây là đâu? Lại có mấy vị tướng quân vận đồ như  người thường đã tới thềm đá phía trước .
Tế Phật:  Trên thềm đá này là Tam Điện, khu cai quản của Minh Vương, phía trên là một dãy tù ngục bất tận. Mau tiến tới trước đón chào Tướng quân.
Dương Sinh:  Xin ra mắt chư vị Tướng Quân, thầy trò chúng tôi phuịng chỉ viết sách, hôm nay đi tới đây, xin Tiên Quan chỉ giáo tường tận cho.
Tướng Quân:  Miễn lễ, xin mời Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh vào trong nhà nghỉ ngơi. Sảnh đường này là nơi quản lý tất cả các ngục thuộc Đệ Tam Điện, phía sau sảnh đường là các nhà ngục.
Tế Phật:  Vì thời giờ có hạn, tôi thấy chẳng cần nghĩ ngơi, xin hướng dẫn Dương Sinh đi thăm các ngục là được rồi.
Tướng Quân:  Càng hay, quí Hiền Đường phụng chỉ viết Địa Ngục Du Ký, chúng tôi đã sớm biết như vậy, giờ lại được Tế Phật trực tiếp cho hay muốn dạo thăm chốn này, mời hai vị theo chúng tôi đi về phía bên trái.
Dương Sinh:  A, môtquạng trường quá lớn, các phòng ốc đều kiến trúc bằng gỗ, gần đây có tiếng kêu đau đớn vọng ra, phía trước có một cái ngục, trên đề Địa Ngục Móc Mắt.
Tướng Quân:  Bữa nay chúng tôi hướng dẫn quý vị thăm Địa Ngục Móc Mắt, trước hết phải vào nhà này để tôi trình với quan coi ngục.
Ngục Quan:  Vui mừng đón tiếp hai vị tới thăm bản ngục, tôi xin hướng dẫn quí vị vào xem xét bên trong ngục, nếu như có chỗ nào không rõ, Dương Thiện Sinh chớ ngần ngại, cứ hỏi.
Dương Sinh:  A, những phạm nhân trong nhà ngục này, đều bị móc hết mắt, máu tươi chảy ròng ròng, kẻ nào kẻ náy khóc lóc thảm thương, hai tay chân máu chảy từ trong hốc mắt ra, quả là tàn nhẫn. Phía bên trái có một kẻ trung niên đang bị âm binh dùng chĩa sắt móc mắt ra, tránh né không được, kêu thất thanh, tròng con mắt trái rớt ra, hồn mê sảng thân ngất xỉu, nhưng vì bị trối vào cây cột, nên chỉ có đầu gục xuống, âm binh móc thêm mắt  còn lại, tôi chẳng dám nhìn, hành vi dã man quá.

Tế Phật:  Dương Sinh, con chớ hoảng sợ mà quá lời, đây là luật báo ứng ở cõi âm, tại sao lại phát ngôn bừa bãi, quá vô lễ.
Tướng Quân:  Chúng tôi không ngạc nhiên, Dương Sinh chẳng cần giữ ý, có điều chi thắc mắc cứ hỏi .
Dương Sinh:  Tôi vừa lỡ lời , xin Ngục Quan cùng Tướng Quân lượng thứ. Xin hỏi Ngục Quan tình hình Địa Ngục Móc Mắt ra sao? Có thể trình bày rõ ràng cho tôi được biết không?
Ngục Quan:  Có thể được, phàm những kẻ bị phán xét giam ở ngục này, khi vào tới ngục, trước tiên bị trói vào cây cột, rồi sau móc mắt, tội hồn ắt đau đớn kêu la, chết đi sống lại. Mỗi ngày bị hành hình ba lần, trước khi hành hình thì lại đem hai mắt ráp vô, dùng nước hoàn hồn rữa, tri giác của tội hồn tức khắc hồi phục, sau đó lại thụ hình, như vậy mới làm tội hồn đau đớn được.
Dương Sinh:  Không rõ phạm tội gì mới phải tới ngục này?
Ngục Quan:  Để tôi gọi mấy tội hồn tới tự thuật rõ chuyện thực . Tướng Quân mang tới đây ba tội hồn đã ráp mắt, rửa nước hoàn hồn để tiện khai rõ những tội mà nó đã phạm lúc còn sống, để viết vào sách quí, khuyên răn người đời.
Tướng Quân:  Tuân lệnh. Đã lo liệu xong, tội hồn này sẽ thuật rõ tội ác đã làm cho mấy vị từ dương gian xuống nghe, cùng tâm trạng bị hành hình sau khi chết để Thiện Sinh truyền lại những tiếng lòng của tội hồn hầu khuyến hoá thế nhân.
Tội Hồn:  Ô hô! Hai mắt tôi đau nhứt chịu không nổi, còn bắt tôi nói cái gì?
Ngục Quan:  Tướng Quân, mau dùng nước phép rửa sạch để tội hồn trấn tỉnh lại.
Tế Phật:  Khỏi cần, nhìn ta hoá phép...
Tội Hồn:  Bay giờ bớt nhiều rồi, đa tạ sự giải cứu của hoà thượng. Tôi, lúc sống quá kiêu ngạo, vì sau khi tôi tốt nghiệp đại học, lại đượng có gia đình, do đó xem khinh các kẻ cùng khốn và những người không học tới đại học. Vì cao ngạo khinh khi, nhìn người bằng nữa con mắt, lúc sống hưởng thụ cảnh giàu sang, kết giao cùng giới thượng lưu quyền quý. Sau khi chết liền bị Minh Vương phán tội, phạt tôi vì lúc sống nhãn quang quá cao, khinh thị tất cả những người bình thường, bảo mắt tôi là "mắt thế lợi". Tôi tối ngục này đã được hai năm ba tháng ngoài, còn hai năm nữa mới có thể ra khỏi ngục, vì lúc tại thế còn phạm nhiều tội khác, sau khi xuất ngục, đường đi dữ nhiều lành ít. Xin các vị thiện nhân phải khuyên răn người đời là dù có tiền bạc, có thế lực cũng không được "dương mắt chó coi khinh kẻ khác". Vì coi rẻ khinh khi người khác, sau khi chết sẽ bị đày  đoạ như tôi. Kính  nhờ thiện nhân thay mặt tôi xin với Minh Vương giảm bớt tội giùm tôi.
Dương Sinh:  Xin hỏi Tướng Quân, tội hồn này đã hợp tác nói rõ tình trạng phạm tội để khuyên răn người đời, nghĩ thấy có công có thể tha thứ cho tội hồn này được không?
Tướng Quân:  Tôi không dám tự tiện.
Ngục Quan:  Việc này về điện tôi sẽ thưa lại với Chúa Công, tội hồn có thể được tha thứ một đôi phần. Mau áp giải tội hồn này về, đem hai tội hồn khác ra đây để họ thuật lại tình trạng phạm tội khi còn sống.
Tướng Quân:  Tuân lệnh, đã đưa hai tội hồn tới, cũng được rửa nước phép, thân thể đã tự nhiên khôi phục. Trước hết, tội hồn phía tay mặt, hãy thuật lại cho Dương Thiện Sinh là người dương gian rõ những tội ác đã phạm khi còn sống.
Tội Hồn:  Tôi lúc còn sống thường đắm say nữ sắc, xã hội dương gian chẳng lạ gì cảnh ấy. Tôi thường nhìn lén thiếu nữ hàng xóm cùng đàn bà lúc tắm rửa. Cũng từng để cho bạn bè rủ rê tới những căn phòng kín đáo xem phim con heo. Về sau ham thích quá độ, tự động tìm kiếm kích thích, cuối cùng theo chân bạn bè đến một khách sạn, có sẵn gái, chỉ việc kêu tới biễu diễn thoát y để hưởng lạc. Một năm trước đây, tôi chết vì tai nạn xe cộ, hồn tới âm phủ nhưng tuổi thọ chưa hết, liền bị Minh Vương phán giam tại Ngục Móc Mắt, hàng ngày chịu hình phạt móc mắt vô cùng thê thảm, con cháu tại thế hoàn toàn không hay biết, có hối cũng chẳng còn kịp nữa. Mong Thiện Sinh sau khi về trần, tuyên bố giáo hoá nhiều để cho người đời được rõ cảnh này. Những điều mình làm khi sống tưởng là thần không biết, quỉ không hay nhưng  sau khi chết, hồn tới trước đài gương soi ác nghiệp thì lập tức những tội lỗi hiện ra hết, không sót một mảy may.
Tướng Quân:  Tội hồn này già mà không nên nết, già còn ham cô đầu con hát, lúc sống có tiền của  không biết hưởng tuổi già cho trọn tuổi thọ lại đi ham hố những chuyện bậy bạ, chuyện dòm lén sự dâm ô, hai mắt thất đức, do đó phải tới địa ngục móc ra rửa ráy cho sạch sẽ. Lại kêu tội hồn phía trái tới, bắt phải cung khai những việc ác đã làm khi còn sống một cách mau lẹ.
Tội Hồn:  Tôi bị đày ở ngục này do tội của tôi đã phạm từ khi còn là học sinh, gặp kỳ thi đã gian dối, dòm lén bài của thí sinh khác, cùng mở sách ra coi. Ham thích đọc tiểu thuyết dâm ô, xem hình loã thể cùng phim ảnh khiêu dâm. Sau khi chết bị Minh Vương phán tới ngục này để thụ hình. Tôi đã bị đày ải nữa năm, còn hơn ba năm nữa mới có thể ra khỏi ngục.
Dương Sinh:  Thiệt sợ quá, con lúc còn đi học, gặp kỳ thi cũng xem bài của kẻ khác, đều không bị giám khảo bắt được, sau khi chết chắc cũng phải tới đây thụ hình?
Tế Phật:  Gian dối phạm trường qui, nhưng con cũng đừng quá sợ hãi, trời cao không nỡ kết tội kẻ đã biết ăn năn hối cải, con đã qui y cửa Hiền Đường, thay Trời giáo hoá, làm sứ giả của Trời, công đước to lớn, đem công bù cho tội, hẳn là được miễn tới đây.
Ngục Quan:  Tướng Quân, mau đem tội hồn tống giam vào ngục. Nếu như có điểm  thất lễ, xin Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tha thứ.
Dương Sinh:  Không dám.
Ngục Quan:  Phàm mắt của người đời bất chính, thích ngắm sắc đẹp, xem sách dâm ô hoặc nhìn người bằng con mắt kinh thị, những kẻ mắt không lương thiện, sau khi chết ắt bị đày ở Ngục Móc Mắt. Nếu như sau khi coi sách Địa Ngục Du Ký mà tự biết hối cải cùng phát tâm ấn tống kinh sách này để khuyên răn giáo hoá người đời, thì sau khi chết đi tội này sẽ tiêu tan hết.
Tế Phật:  Bữa nay thời giờ eo hẹp, thầy trò chúng tôi sắp phải ra về, xin đa tạ Ngục Quan cùng Tướng Quân. Dương Sinh mau cám ơn quí vị đi con, sửa soạn rời ngục trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan cùng Tướng Quân đã chỉ giáo, xin từ biệt .
Tướng Quân:  Xin  tiễn Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh.
Tế Phật:  Dương Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại hiền đường.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng...
Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI BẢY
 DẠO ĐỊA NGỤC DAO SẮT DAO ĐỒNG LÓC DA MẶT
 Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 29 tháng 10 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
Dâm phong biến  bố thực kham thương
Tội ác thao thiên thắng hổ lang
Ký ngữ dương gian than sắc bối
Cải đầu hoán diện mạc dương cuồng.
Dịch:
Thối dâm tràn ngập thật là thương
Tội ác loà trời quá hổ hang
Nhắn nhủ dương gian phường hám sắc
Đổi đầu thay mặt chớ điên cuồng.

Tế Phật:  Lối đạo gian nan, người tu đạo bị ma quỉ thử thách không ngừng, ai là kẻ thuận buồm xuôi gió tới cõi Phật? Giữ vững niềm tin dẫu chết chẳng rời, bởi chết vì đạo linh chứng sẽ tối cao. Gặp nghịch cảnh càng thêm nổ lực, cắn chặt còn sợ gì gió quỉ mưa ma đầy trời. Thánh nhân đã nói: "Kién quái bất quái, quái tự vong" (thấy sự kỳ quái mà không cho là kỳ quái, sự kỳ quái đó tự tiêu tan).  Đường đạo gặp chướng ngại cản trở, rút gươm tuệ chém tan tơ rối, phải trải qua một phen lạnh thấu xương, mới mong hái được hoa mai nở, hương thơm ngào ngạt. Bữa nay dạo âm phủ, sửa soạn lên đường. Con hãy lên tinh thần, phải cố gắng đi hết con đường gian truân này mới đủ gọi được là tay hảo hán kiên trì vì đạ.
Dương Sinh:  Đa tạ ân sư đã khuyến khích, con tứ biết nghiệp nặng không tu khó thoát khỏi ma nạn trùng trùng. Xin thầy yên lòng, con sẵn sàng theo thầy dạo cõi âm...
Tế Phật:  Đã tới, mau xuống đài sen, bữa nay thầy trò mình dạo thăm địa ngục dao sắt dao đồng lóc da mặt.
Dương Sinh:  A! Ngục Quan cùng Tướng Quân đã ra trước ngục. Kính lạy ra mắt chư vị Tiên Quan, tôi là môn sinh của Thánh Đế tại Thánh Hiền Đường, bữa nay do Tế Phật dẫn đường xuống thăm quí ngục để viết sách Địa Ngục Du Ký hầu khuyên răn giáo hoá người đời để họ hiểu rõ những hình phạt mà các tội phạm phải chịu ở các ngục nơi âm phủ. Kính xin chư vị Tiên Quan cấp cho tôi các phương tiện để tìm hiểu.
Ngục Quan:  Không có chi, chớ quá khách sáo. Thôi đừng quì, hãy đứng lên. Hoan nghênh Dương Sinh cùng Tế Phật đã tới thăm bản ngục, xin mời vào trong ngục tham quan.
Tướng Quân:  Bản ngục là Địa Ngục Dao Sắt Dao Đồng Lóc Da Mặt, chuyên xử phạt những kẻ phàm nhân vô liêm sỉ, chẳng biết yêu da mặt. Mời hai vị vào trong.
Dương Sinh:  Trước ngục âm binh áp giải biết bao tội hồn, nào gái nào trai, tuổi tác lớn có nhỏ có, kẻ nào kẻ ấy gục đầu, vẻ mặt kinh hoàng tán đởm. Trước tiên dẫn tới cửa ngục biện lý để làm thủ tục khai báo, sau đó mới áp giải vào trong ngục.
Tế Phật:  Chớ có ngó lâu, mau theo Ngục Quan cùng Tướng Quân tiến vào trong ngục tham quan.

Dương Sinh:  Ái chà, tiếng kêu khóc thảm thương từ trong ngục vọng ra...các tội phạm bị tối vào những cột sắt, quỉ binh đầu trâu mặt ngực đang hành hình bằng cách dùng dao đồng, dao sắt lóc da mặt tội nhân, giống y hệt đồ tể lóc da hao ở các lò heo. Các tội hồn kêu khóc thảm thương, toàn thấy thịt đổ máu rơi, chỉ nghe tiéng la mà không nhận ra mặt. Sau khi lột da, đầu bầy nhầy trơ sọ đỏ lòm, trông thật tàn nhẩn. Xin hỏi Ngục Quan, các tội hồn này đã phạm tội gì mà tới nổi phải phạt tới ngục này để chịu khổ đâu.
Ngục Quan:  Một lời nói khó hết, chẳng thà kêu mấy tội hồn ra để Thiện Sinh hỏi cho tỏ tường.
Dương Sinh:  Vậy thì tốt quá, có được chứng cớ cụ thể.
Tướng Quân:  Nam tội hồn kia mau ra đây, hồi còn sống làm ác thế nào, kể hết sự thực ra cho Dương Thiện Sinh người ở dương gian nghe.
Dương Sinh:  Xin hỏi tội hồn, tại sao lại đoạ lạc ở ngục này.
Tội Hồn:  Lúc còn sống, cha mẹ tôi mất sớm, tôi không được giáo dục, bị người sai khiến cảm thấy khổ sở. Tôi bèn nghĩ ra kế đổi nghề làm ăn mày, mỗi nhà nếu cho mnột đồng, một ngày chìa tay xin một trăm nhà cũng đủ sống rồi, có tiền tiêu lại đở cực. Nhưng thân thể tôi tráng kiện, sợ rằng chủ không cho ra nên mới ăn đói hai tháng, hàng ngày chỉ ăn chút cháo cùng uống nước lạnh, quả nhiên thân thể ốm o yếu đuối, lại còn lấy bùn đất bôi mặt cho lem luốc, mặc quần áo rách rưới, chân giả què, đi khắp nơi kêu gọi lòng thương xót của người để xin tiền. Gặp ai cũng than thở hoàn cảnh khổ sở, thân đơn chiếc, chân tàn phế, nhiều người nhìn tôi thương xót cho tiền. Có tháng được tới bôn, năm ngàn đồng . Về nhà lấy làm sung sướng lắm vì rất dễ dàng có tiền, tối đến mặc đồ mới, ra phố ăn uống no say hoặc đến khu ăn chơi đàng điếm truỵ lạc, cũng thường tới quán rượu say sưa, nghe nhạc dâm dục. Về sau vì muốn làm giàu, nên mỗi lần xin, xin từ mười đồng trở lên, người ta cho  hai ba đồng đều không thèm lấy, do đó thường bị những kẻ hà tiện chửi mắng, không thèm ngó mặt. Sau khi chết bị Diêm Vương phán đầy ở ngục này để chịu hình phạt lột da mặt, đau đớn vô cùng, hối hận thì đã trể rồi.
Ngục Quan:  Nghiệp súc sanh, nói về tội hồn nạy kiếp trước không tu, sinh vào gia đình bất hạnh, không nghĩ là mình tuổi trẻ, sức  lực cường tráng, chăm chỉ làm việc để mưu sinh, lại giả dạng tàn phế, mặt dạn mày dày đi ăn xin. Phàm kẻ có huyết khí  phải lăn lóc cho tới sơn cùng thuỷ tận, chứ đâu lại cúi đầu, chì mặt ngửa tay ăn xin. Đã vậy lại còn đem tiền xin được tiêu phí trong chốn tửu sắc, thật quả là ngỗ ngược, quả là vô đạo. Lúc còn sống không thương da mặt để tới nỗi sau khi chết phải chịu hình phạt lóc da mặt khiến không còn mặt mũi nhìn kẻ khác. Mong người đời đề cao cảnh giác. Trở lại ngục mau. Tôi kêu một tội hồn nữa ra để Dương Thiện Sinh hỏi tiếp.
Dương Sinh:  Đa tạ Tướng Quân. Xin hỏi tội hồn, tôi thấy tội hồn chỉ mới khoảng ngoài ba mươi tuổi, tại sao còn trẻ mà đã chết, lại còn bị xử phạt đày ở ngục này?
Tội Hồn:  Nói ra đã xấu hổ, lại càng thêm nhục tổ tiên, mười tám tuổi, khi tôi còn học ở bậc trung học, thường rủ rê bạn bè tới công viên chơi, gặp con gái chạy theo chọc ghẹo, hoặc tán tỉnh kiểu đầu đường xó chợ, thường bị chửi là "đồ lưu manh" "đồ mất dạy" "đồ mặt dầy". Càng bị chửi tôi càng lấy làm hãnh diện khoái trá. Gặp những con đường vắng tôi thường chạy theo chọc ghẹo đàn bà, ôm đại eo con gái, hoặc lạng xe thò tay quấy phá thân thể phụ nữ, có lần còn dám cả gan cưỡng dâm một thiếu nữ. Tuy lúc sống chưa từng bị cnảh sát trừng trị, nhưng có lần cỡi xe thò tay mò bậy, bị một cô la to, tôi khoảng kinh, xe lao xuống vực tôi chết ngắc. Minh Vương giận dữ la tôi là có tánh ác mà không chịu sửa cho nên giảm tuổi thọ của tôi mười năm. Sau đó phán đày tôi vào ngục này để chịu hình phạt khổ đau. Đến nay đã hơn năm năm, phải trên mười ba năm nữa mới ra khỏi ngục. Rồi lại còn bị giao cho cá điện khác xử tội để chịu hình phạt tiếp, thực đáng thương. Mong người nhân từ thay tôi xin với Minh Vương giảm bớt một hai phần tội của tôi.
Ngục Quan:  Không được nhiều lời, ai biểu mi lúc sống chơi bời lêu lỏng, không biết giữ lễ nghĩa liêm sỉ; dâm là đầu của mọi tội ác, làm tội thì mang hoạ. Đã thiếu học còn làm nhục tổ tiên, cha mẹ. Lúc còn sống không thương mặt của mi, chết đi chịu quả báo vì tội cưỡng dâm. Sau khi thụ hình xong sẽ giao mi qua điện khác để trừng phạt tiếp. Tướng Quân mau đem tội hồn này tống giam vào ngục.
Tướng Quân:  Tuân lệnh.
Tế Phật:  Thời giờ đã trễ, thầy trò ta chuẩn bị trở lại Hiền Đường. Dương Sinh mau rời ngục.
Ngục Quan:  Có điều chi thất lễ, xin Tế Phật cùng Dương Sinh tha thứ.
Dương Sinh:  Không dám, đa tạ Ngục Quan cùng Tướng Quân đã giúp đỡ để hoàn thành trách nhiệm viết sách. Xin từ biệt hai vị.
Tế Phật:  Mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, thầy có thể trở lại Hiền Đường.
Tế Phật:  Đã tới Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI TÁM
 DẠO ĐỊA NGỤC TREO NGƯỢC
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 9 tháng 11 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
Thi lâm biến dã dục chiêu hồn
Ố huyết thành hà nhiễm thảo căn
Đảo trí luân thường hình đảo điếu
Di lưu nghiệt hoạ báo nhi tôn.
Dịch:
Đầy nội rừng thây muốn gọi hồn
Tràn sông ngập cỏ máu nhơ tuôn
Luân thường đảo lộn thân treo ngược
Mầm hoạ để dành báo cháu con.

Tế Phật:  Giữa mùa đông giá, vô cùng lạnh buốt, nhà giàu sửa soạn lò sưởi, củi đốt, mình mặc áo lông, áo da cừu, ăn đồ đun nóng trên bếp lửa. Nhìn lại nhà nghèo, ai nấy áo lạnh mỏng manh, hai hàm răng trong miệng đánh vào nhau nghe côm cốp, muôn phần thê lương. Kiếp trước không tu, kiếp này chìm nổi, mùa đông tới thân lạnh lẽo. Mong những ai no cơm ấm áo ở cõi đời này phải có tinh thần cứu giúp những kẻ nghèo đói khốn cùng, phải tu nhân tích đức để kiếp sau được phúc báo dồi dào, nếu không phúc sẽ hết, kiếp sau phải đầu thai vào gia đình nghèo khổ. Kẻ có trí tuệ, giỏi lo toan không thể không trù tính trước. Bữa nay sửa soạn dạo âm phủ, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, mời thầy khởi hành.
Tế Phật:  Đã tới nơi, Dương Sinh mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Ái chà, tiếng kêu khóc thảm thương từ đàng trước vọng lại, giống hệt tiếng heo kêu lúc bị đồ tể trói, khênh ra chọc tiết ở làng quê.
Tế Phật:  Không được nhiều lời, phía trước Ngục Quan cùng Tướng Quân đã tới, mau tới đón chào.
Dương Sinh:  Kính chào Ngục Quan cùng Tướng Quân. Tôi và Tế Phật phụng chỉ dạo địa ngục viết sách Địa Ngục Du Ký để khuyên đời, xin chỉ giáo nhiều cho.
Ngục Quan:  Miễn lễ, từ lâu tôi đã ngưỡng mộ danh lớn Thánh Hiền Đường. Quí Hiền Đường phò thánh giáo mở rộng đạo, ấn tống kinh hay, sách quí dạy điều thiện để phổ độ chúng sinh, khuyên răn giáo hoá tinh thần người đời khiến rung chuyển cả ba cõi, đã thức tỉnh được biết bao kẽ liều mạng, mê lầm, công lao hỗ trợ thật là to lớn. Bữa nay có duyên gặp gỡ, mời Tế Phật cùng Dương Sinh theo tôi vào trong ngục tham quan.
Dương Sinh:  Đa tạ. A! Thì ra đây là Địa Ngục Treo Ngược, trên cửa có bảng đề rõ ràng.
Tế Phật:  Đúng đấy, bữa nay chúng ta dạo thăm  Địa Ngục Treo Ngược, mau theo Ngục Quan cùng Tướng Quân vào trong ngục.
Dương Sinh:  Hàng loạt tiếng kêu than như tiếng khóc đám ma, trong ngục là một bãi đất rộng trên mặt hãy còn máu đỏ tươi nhuộm đẫm cỏ.
Ngục Quan:  Đây là Địa Ngục Treo Ngược thuộc quyền cai quản của Đệ Tam Điện.
Dương Sinh:  Cảnh hành hình ở trên sân cỏ rộng hiện ra trước mắt, những trụ sắt trồng thành hàng, trên đầu có căng  dây, tất cả tội hồn đều bị treo ngược. Dây thép cứng xuyên qua lòng bàn chân, đầu thồng xuống đất, máu tươi ở chân phọt ra, giãy giụa, kêu gào. Nhưng càng giãy giụa càng đau đớn. Có kẻ bảy lỗ đều chảy máu, im lìm bất động. Tội hồn ở trên cột giống hệt mì sợi đem phơi nắng. Xin hỏi Ngục Quan tại sao các tội hồn đều phải chịu hình phạt này ?
Ngục Quan:  Người trần thế, luân thường đảo ngược, đạo đức đồi bại, trò khinh thầy không phân biệt ngũ luân, cho nên những tội hồn bị giam tại ngục này ngày một nhiều. Mấy tội hồn bị phạt máu tươi  nhỏ giọt xuống đất làm mọc lên thứ nắm màu đỏ. Vì máu đỏ tươi tưới xuống đất lâu ngày tự nhiên sinh ra loại nắm màu đỏ mà dương gian hiện cũng có trồng. Huyết dịch của tội hồn nhơ bẩn sinh ra vi khuẩn sau đó mọc thành nấm này.
Dương Sinh:  Mùi tanh xông vào mũi, khó chịu quá, chỉ muốn mửa.
Tế Phật:  Hãy trấn tỉnh tinh thần, để tránh phương hại tới nhiệm vụ viết sách.
Ngục Quan:  Tôi kêu vài tội hồn tới kể lại rành mạch trường hợp phạm tội của họ để Dương Sinh nghe.
Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan.
Ngục Quan:  Tướng Quân hãy hạ một tội hồn đang treo ngược trước mặt xuống để nó thuật lại tình trạng đã phạm tội cho Dương Sinh nghe.
Tướng Quân:  Tuân lệnh... Đã hạ tội hồn xuống rồi.
Dương Sinh:  Xin hỏi tội hồn, vì cớ chi mà bị treo ngược giữa chốn gió lạnh lùa thổi này?

Tội Hồn:  Ôi chà chà, tôi đau đớn quá, hai chân đứng không vững, đau nhức lắm, bị treo ngược ruột gan cơ hồ muốn ói luôn ra. Tôi lúc  còn sống cư ngụ tại Đài Nam, nhân chú tôi không có con, từ bé tôi

đã rời nhà tới ở với chú, nhận chú làm cha, được chú nuôi cho tới khi khôn lớn, học hết bậc trung học. Vì chú chỉ có tôi là con trai duy nhất, cho nên chú tôi rất thương mến tôi, do đó những nghiệp vụ của công ty chú tôi giao cho tôi toàn quyền lo liệu. Tới năm tôi 37 tuổi, có người láng giếng mách cho hay là tôi không phải con đẻ của chú tôi, lòng tôi liền nẩy sinh ý muốn trở về sống với cha mẹ ruột mình thì hay hơn. Từ đó tôi lén lút chuyển tiền bạc về nhà cha mẹ đẻ, cha tôi thấy vậy cũng không ngăn cản, tôi còn đem hàng hoá giá trị của công ty bán hết đi cùng biên thêm một  số chi phiếu, sau đó bỏ nhà chú trở về nhà cha mẹ ruột lo hưởng thụ vinh hoa phú quý. Khi rõ được sự tình chú tôi nghiến răng trợn mắt, bầm gan tím ruột, chửi trời trách đất. Chi phiếu tới kỳ hạn không tiền bảo chứng, các chủ nợ rần rần kéo tới cửa đòi tiền, vì chú tôi đứng tên trương chủ; do đó phần bị bức bách, phần không có cách nào giải quyết nên đành nuốt hận tự tử. Hồn chú tôi tới âm phủ liền tố cáo tội của cha con tôi với Diêm Vương, Diêm Vương liền thụ lý án này. Chú tôi mất được một năm thì cha con tôi bị bệnh ma nhập vào thân, đã tiêu phá hết tiền của, bệnh lại nhập vào tim phổi nên cả hai đều thác. Hồn cha con tôi xuống tới âm phủ mới biết là đã bị giảm bớt tuổi thọ. Tam Điện Minh Vương quá giận phán đày tôi vào Địa Ngục Treo Ngược. Nghe nói cha đẻ tôi cũng bị xử đày nơi ngục khác để chịu hình phạt.
Ngục Quan:  Quân súc sanh ngược ngạo, mi được chú nuôi nấng khôn lớn, không biết đền ơn, nữa đường thay lòng đổi dạ, đảo ngược luân thường đến nỗi phải xử đày ngục này để thụ hình, còn nói năng gì nữa? Tướng Quân hãy áp giải nó đi hành hình, cởi trói thả hai tội hồn phía trái xuống để nó khai tội với Dương Thiện Sinh hầu chép vào sách Địa Ngục Du Ký.
Tướng Quân:  Tuân lệnh... Đã dẫn tội hồn tới.
Ngục Quan:  Mau khai hết tội mà mi đã phạm lúc còn sống cho Dương Sinh thuộc Thánh Hiền Đương ở dương gian nghe.
Tội Hồn:  Tôi hiện tại muôn phần thống khổ! Hằng ngày chịu hình phạt treo ngược, có miệng mà như câm, hai mắt muốn lòi tròng. Lúc còn sống toi ngụ ở Đài Trung, đã có gia đình còn kết giao với một thiếu nữ, lén lút sống chung với nhau, lần lần bị bại lộ, thiếu nữ đó không cha, chỉ có một bà mẹ cô đơn, tuổi đã ngoài bốn mươi mà nhan sắc còn mặn mà. Tôi thường mượn cớ này cớ nọ lui tới nhà bà, dùng lời đường mật quyến rũ, bà liền bị tôi mê hoặc rồi thất tiết vì tôi, ngựa quen đường cũ, lui tới gặp gỡ hoài, cuối cùng ăn ở với nhau công khai, hưởng thụ mọi khoái lạc. Vì quá sung sướng thành loá mắt không tự biết kềm chế bớt. Cuối cùng bị tai nạn xe hơi, thân thể nát bấy, hồn bất tỉnh. Trong lúc hôn mê quỉ đầu trâu mặt ngựa mang chĩa sắt, xích sắt tới áp giải xuống âm phủ, khi tới trước đài gương soi ác nghiệp, những hành vi xấu xa bẩn thỉu trước đây hiện rõ lại nguyên hình, thẹn nhục tới nổi chẳng còn dám ngó mặt một ai. Minh Vương quá giận dữ liền xử đày tôi vào Địa Ngục Treo Ngược với thơi gian là ba mươi năm, hiện thời tôi mới chịu tội được hai năm, như vậy còn quá lâu, không biết tới bao giờ mới dứt khổ.
Ngục Quan:  Quân súc sinh, mi chẳng khác gì gà chó, cha mẹ không nhìn, tội gian dâm là tội đứng đầu muôn nghiệp ác, mi gian dâm với con gái nhà người ta là tội lớn, đã không tự biết lại còn làm tới, phá hoại thêm  tiết hạnh của người quả phụ, gian dâm cả mẹ lẫn con, tội mi đáng chết. Sau khi thụ hình ở ngục này, mi còn bị đầy tiếp tại ngục A Tỳ, vĩnh viễn không được đầu thai.
Tế Phật:  Khồng gìn giữ ngũ luân, làm bại hoại đoạ đức, người đời nếu như không tôn kính thầy, dùng lời xấc xược đối với người trên, không hiếu thảo với cha mẹ, gian dâm với cả mẹ con mà bị xử phạt đày ở Ngục Treo Ngược này kể cũng còn là nhẹ, phải đày xuống ngục A Tỳ mới là chỗ chôn thân. Người đời mau sớm tỉnh ngộ, để sau khi chết khỏi phải đày xuống ngục này. Bữa nay thời giờ đã cận, thầy trò chúng ta sửa soạn phải trở về.
Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan cùng Tướng Quân đã mở đường khai lối, chúng tôi phải trở lại Hiền Đường, xin từ giã hai vị tiên quan.
Tướng Quân:  Miễn lễ, có chỗ nào sơ xuất xin Tế Phật cùng Dương Sinh thứ cho.
Tế Phật:  Xin đường khác sáo. Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật:  Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI MƯỜI CHÍN
 DẠO PHỦ HOÀN HỒN BỐN LOÀI SINH VẬT
 Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 19 tháng 11 năm Bính Thìn (1976)
Thơ:
Phi mao tái giác nhất nhân thân
Tại thế phi vi chủng nghiệt nhân
Vạn vật đồng tuần thiên lý chuyển
Tứ sinh bội đạo thái vi nhân.
Dịch:
Thân người hoá vật mọc sừng lông
Làm quấy trần gian giống ác trồng
Chuyển biến lẽ trời muôn vật đổi
Bốn đời phản đạo phá cương thường.

Tế Phật:  Bữa nay sửa soạn dạo địa ngục, Dương Sinh mau theo thầy lên đài sen.
Dương Sinh:  Thưa vâng, nhưng không rõ bữa nay mình đi đâu?
Tế Phật:  Lần dạo âm phủ bữa nay thật khác xa các lần trước, có một cảnh đặc biệt, phải lên tinh thần, tâm chớ hoang mang, kẻo ảnh hưởng tới việc viết sách.
Dương Sinh:  Vâng vâng, con đã lên đài sen, xin thầy khởi hành ... A, tại sao phía dưới  lại lóng lánh ánh vàng, có người đầu toả hào quang, ngời sáng không trung.
Tế Phật:  Ai biểu con lén mở mắt ra? Đó là ánh đạo ngời toả từ Thánh Hiền Đường, bởi vì chúng ta toạ đài sen nổi ở giữa không trung, nên trong Hiền Đường có chư thần phò hộ, có các môn sinh thiền định tập trung tinh thần, hai  khí âm dương hội tụ ở tiêu điểm, tư nhiên phóng ra ánh sáng. Đó là công trình tụ tập gian lao của các môn sinh tại Hiền Đường.
Dương Sinh:  Xin hỏi ân sư, ánh đạo của các môn sinh trong Hiền Đường có thể bảo trì mãi mãi được không?
Tế Phật:  Phàm sau khi rời Hiền Đường, đạo tâm không bỏ, hành đạo chuyên cần, ánh sáng càng ngày càng mạnh, càng ngày càng sáng. Nếu như sau khi rời Hiền Đường, bỏ mất tâm đạo, muốn gì làm nấy, lén lút làm chuyện tổn đức, ánh sáng liền biến thành bóng tối, mất đi vẻ sáng ngời. Nếu như trong Hiền Đường có tam giới cao chân giáng lâm, thì ánh đạo mạnh vô cùng. Do đó, kẻ gần gũi người có đạo hay chùa miễu, thánh đường, ma ở ngoài chẳng dám xâm phạm. Sau khi rời Hiền Đường, nếu như hành động bất nhân ác đức, đèn tâm lập tức tắt ngầm, ma quỉ thích tối sợ sáng, do đó dễ xâm nhập vào trong người, khi ánh sáng ban mai ló dạng, quỉ ma tức khắc thối lui. Người đời không thể không thận trọng điều đó. Dương Sinh mau nhắm hai mắt, để tới âm phủ dạo thăm.
Dương Sinh:  Dạ dạ, con đã nhắm thật chặt hai mắt, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật:  Đã tới nơi, Dương Sinh mau xuống đài sen.
Dương Sinh:  Tại sao phía trước lại có dã thú, gà vịt cùng chim chóc tụ họp, có nên theo đường nhỏ này tới đó xem?
Tế Phật:  Đó là bốn loại sinh vật sau khi chết trở lại địa ngục, vì phía trước là ranh giới giữa cõi âm với cõi trần.
Dương Sinh:  Bữa trước tới đây, tại sao con không nhìn thấy cảnh này?
Tế Phật:  Bởi vì con là người phàm, ta sợ con thấy quá nhiều, tinh thần sẽ bấn loạn, bởi vậy tạm dùng pháp thuật che mắt để con khỏi trông thấy cảnh bốn loại sinh vật trên đường trở về âm phủ.
Dương Sinh:  Thì ra con đã bị ân sư đem phép tám muội ra rỡn mà không hay. Những động vật này tới âm phủ tại sao lại kinh hoàng kêu la, bay nhảy, giống như bị người ta lùa đuổi vậy?
Tế Phật:  Bốn loài sinh vật này đầu thai ở dương gian, khi chết phần lớn đều bị người ta giết, do đó còn hoảng kinh chưa an định, một sớm đoạn tuyệt dương khí, liền bị âm khí bổ vây, tất cả đều trở về địa ngục để lãnh ba kiếp nhân quả . Nghiệp chướng của bốn loài sinh vật này khá nặng, tính linh y tối, nguyên khí suy nhược, lúc chết chẳng cần âm binh áp giải, tự nhiên bị hấp lực của địa ngục hút trở về, điểm này người đời phần lớn đều chưa rõ.
Dương Sinh:  Đúng rồi, quả con mới nghe lần đầu trong đời. Chúng ta đi về phía trước phải không?
Tế Phật:  Đúng vậy, chúng ta theo đám gia súc trâu, ngựa và dê này mà đi, đến như các loại hoá sinh, thấp sinh, hình dáng li ti, khi chết hồn phách nó nhỏ như hạt cát bị gió thổi tung lên, tốc độ bay rất lẹ, mắt phàm khó mà nhìn thấy rõ. Chúng bay về tụ họp ở âm ti, đợi sau khi đã hoàn hồn, sẽ được xét xử lại, hầu rõ về ba kiếp nhân quả.
Dương Sinh:  Đa tạ ân sư đã chỉ giáo, nếu không con sẽ chẳng hiểu gì. Phía trước là cửa ngục của quỉ, tại sao hồn bốn loài sinh vật này không đi vào cửa lớn?
Tế Phật:  Vì cửa ngục quỉ do linh hồn người làm chủ, bốn loài sinh vật này nghiệp quá nặng, cho nên phải đi vào bằng cửa nhỏ hai bên.
Dương Sinh:  Đã vào trong cửa ngục quỉ, tại sao nó không tới Giao Bộ Sảnh báo cáo?
Tế Phật:  Có nơi khác lo liêu cho chúng, nơi đó cánh đây cũng chẳng xa, ta hãy đi theo chúng, mau mau lên...
Dương Sinh:  A! Phía trước có một khu đất xanh mướt, giống như khi chăn nuôi, phía tay phải có một điện phủ, trên đề "Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật". Bốn loại sinh vật này vừa kêu la thảm thiết vừa kéo tới tụ họp tại đây, đầu hướng về phía điện phủ gật gù lạy tạ như muôn giãi bày tội trạng.
Tế Phật:  Phía trước chính là phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật. Phàm bốn loài sinh vật chuyển kiếp đầu thai dương thế lãnh nghiệp báo, sau khi trả  hết nghiệp báo ắt trở lại phủ này để hoàn hồn trở lại hình người, mau tới trước phủ.
Dương Sinh:  Ba vị quan viên từ trong phủ đi ra, không rõ họ là ai?

Tế Phật:  Đó là Thiên Tuế cùng quan viên phủ này, mau tới trước chào ra mắt.
Dương Sinh:  Kính lạy Thiên Tuế cùng chư vị Tiên Quan.
Thiên Tuế: Miễn lễ, mau đứng dậy, hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiên Sinh thuộc Thánh Hioền Đường đã quá bộ xuống thăm bản phủ.
Tế Phật:  Bữa nay tôi dẫn Dương Thiện Sinh là môn sinh của Thánh Đế tại Thánh Hiền Đường, ở Côn Đảo thuộc Đài Trung trên dương gian, tới quí phủ tham quan. Xin Thiên Tuế chỉ giáo nhiều cho.
Thiên Tuế:  Được được, mời hai vị theo tôi vào trong ngục nghỉ ngơi.
Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuê đã tiếp đãi quá nồng hậu.
Thiên Tuế:  Mời hai vị ngồi, tướng quân mau dâng trà.
Dương Sinh:  Nơi đây tiêu điều, tất cả đều cảm thấy hoang vắng, xin Thiên Tuế chỉ giáo nhiều cho.
Thiên Tuế:  Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật này, người đời rất ít kẻ biết, còn trường hợp quí Hiền Đường vì phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, có lệnh đặc biết của Ngọc Hoàng nên Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật phải mở cửa để quí vị vào tham quan. Quả thực đó là hành động náo loạn cõi Trời.
Dương Sinh:  Cảm tạ thiên ân thánh đức, xin Thiên Tuế chỉ giáo cho.
Thiên Tuế:  Tôi cai quản phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật này, làm chức Thiên Tuế vì bốn loài sinh vật nay nhừ loài rùa, sống tới 1.000 năm, do đó bản phủ lấy cái tên Thiên Tuế mà xưng hô, không gọi Diêm Vương. Phàm lúc sống tội ác quá nhiều, sau khi bị đày đoạ ở Thập Điện xong còn bị phán đày tiếp trong lục đạo thuộc hàng bốn loài sinh vật luân hồi, giáng thế bèn thay đầu đổi mặt, làm mất đi cái hình thể người quí báu. Tứ sinh chia ra làm thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh. Bốn loài; thai sinh là cấp một, noãn sinh là cấp hai, thấp sinh là cấp ba, hoá sinh là cấp bốn. Vì nặng nghiệp cho nên phải đầu thai dương thế để nhận quả báo. Khi bốn loài này chết đi, loại thai sinh, noãn sinh hồn phách giống người nên linh hồn toàn vẹn. Thấp sinh, hoá sinh nghiệp quả nặng, hồn phách bị tan rã. Bởi vậy hai loại này khó mà hoàn hồn, phải đợi toàn thể hồn linh tập hợp lại, hoàn chỉnh đâu đó xong xuôi, khi ấy mới phục hồi nhân thân được.
Tế Phật:  Đã tới giờ rồi, thầy trò tôi phải trở về Hiền Đường, lần khác lại xin tới làm rộn nhiều hơn nữa.
Dương Sinh:  Được nghe lời chỉ giáo quả là sung sướng, xin tạm biệt, đa tạ Thiên Tuế đã chỉ vẽ cho. Chúng tôi cần phải trở lại Hiền Đường.
Thiên Tuế:  Có điều chi khiếm lễ xin rộng lòng tha thứ. Lần tới xin trở lại thăm bản phủ.
Tế Phật:  Dương Sinh mau rời phủ, sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Thiên Tuế:  Xin tiễn chào.
Tế Phật:  Cảm tạ lời vàng ngọc của Thiên Tuế. Xin được bao dong che chở.
Thiên Tuế:  Chớ quá lẽ độ. Vì giờ trở lại Hiền Đường của Dương Sinh đã tới, tôi không tiện lưu giữ.
Tế Phật:  Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin thầy trở lại Hiền Đường....
Tế Phật:  Thánh Hiền Đường đã tới, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI HAI MƯƠI
 LẠI DẠO PHỦ HOÀN HỒN BỐN LOÀI SINH VẬT
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 29 tháng 11 năm Bính Thìn (1976)
 Thơ:
Thiên lý chiêu chiêu thùy thuyết vô
Nhân duyên cá dị biệt hình khu
Tu lòng lục đạo khai tân lộ
Mạc học thiên tiền kết võng thù.
Dịch:
Lẽ trời vằng vặc chẳng nên bàn
Khác biệt căn duyên khác biệt thân
Sáu ngã tối tăm tìm ngã mới
Đừng giăng lưới nhện trước thềm hiên.

Tế Phật:  Ai nói đạo trời không có báo ứng ? Hãy nhìn bốn loài động vật trâu ngựa, gà vịt, cá tôm, côn trùng, nhân duyên kiếp trước bất đồng cho nên kiếp này hình dáng cũng khác nhau. Người đời là loại chúng sanh cao quí nhất nên được coi là loại có tính linh trong muôn loài, cho nên phải biết quí trọng thân mình, mau tầm đạo tu đức, để tránh khỏi phải bị đầu thai làm một trong bốn loài động vật, mỗi loài phải giữ một bổn phận để tiêu tan các nghiệp báo chất chứa. Từ trong đường súc sanh mở ra một luồng ánh sáng để sớm tới kỳ phục hoàn nhân thân, đừng giống như con nhện trước rèm, tự tạo ra cái lưới mê lầm để rồi bị khốn đốn trong đó, suốt đời bị trói buộc không thoát ra nổi. Dương Sinh sửa soạn dạo địa ngục.
Dương Sinh:  Tuân lệnh, con đã sẵn sàng...
Tế Phật:  Đã tới, phía trước Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật, thấy Thiên Tuế cùng quan viên đã chờ sẵn nơi cửa phủ để nghinh tiếp chúng ta.
Dương Sinh:  Bái kiến Thiên Tuê chùng chư vị Tiên Quan, bữa nay thầy trò chúng tôi lại tới quấy rầy, xin chỉ giáo nhiều cho.
Thiên Tuế:  Chớ lễ độ quá mức, bữa trước chưa được đầm luận nhiều, bữa nay mừng đón Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh lại quá bộ tới thăm. Mời vào trong nghỉ ngơi, đi đường xa chắc là mệt mỏi lắm.
Dương Sinh:  Không cảm thấy khổ cực chút nào, khi ngồi đài sen chỉ nghe tiếng gió thổi mà thôi.
Tế Phật:  Chúng ta theo Thiên Tuế vào trong phủ nghỉ ngơi một lát.
Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuê đã tiếp đãi trọng thể.
Thiên Tuế:  Mời uống trà, xin chớ khách sáo.
Dương Sinh:  Bản đường phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, do tôi đảm nhiệm việc dạo âm ti, biết là hết sức vinh dự, nhưng còn nông cạn về đạo học, tình hình ở Minh phủ hầu hết lại chưa tỏ tường. Vậy xin Thiên Tuế chỉ cho tôi biết thêm về tình trạng hiện thời của Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật, hầu người đời biết rõ mà tránh phạm phải những lỗi lầm.
Thiên Tuế:  Tôi đích thân dẫn Dương Sinh đi thăm sân hành  hình, cùng ở bên cạnh giải thích cặn kẽ, như vậy hẳn là sẽ hiểu rành mạch.
Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuế.
Thiên Tuế:  Dương Sinh hãy theo tôi tới chính điện.
Dương Sinh:  Tuân lệnh. Kìa! Con nai rừng kia tại sao lại đón đường chào Thiên Tuế, hình như nó có điều chi muốn nói?
Thiên Tuế:  Đúng đấy, con nai này kiếp trước là đệ tử của Phật, nhưng vì thân nhuộm trọng bệnh, sinh lòng oán ghét Phật Tổ vì đã không  bảo bọc, bèn bỏ chạy phá giới, phản tục hoàn trần, lập gia đình đẻ con, nhưng vẫn còn huỷ báng Thần Phật . Sau khi chết phải đầu thai làm thân nai. Lần này là lần luân hồi thứ ba, nai được sanh tại núi sâu, ăn cỏ xanh, uống nước suối, suốt đời chịu khổ vì gió sương, để trả nghiệp kiếp trước. Ở chốn non sâu, ăn cỏ, uống sương sống như một vị đạo sĩ tu hành, đó gọi là nhân quả báo ứng. Hiện nay con nai đã hoàn toàn trả xong nghiệp báo, bị âm khí dắt đến điện địa phủ, nghiêng đầu làm lễ là ý muốn nhờ ta giải cứu, để phục hồi nhân thân.
Dương Sinh:  Một niệm nghĩ sai, bèn bị ác báo, âm luật khó thoát, thiệt là đáng sợ. Nhưng tôi còn có điều chưa rõ, bốn loài sinh vật, sau khi chết đi tại sao lại tự nhiên bị âm sai dắt xuống âm phủ, lẽ đó là thế nào vậy?
Thiên Tuế:  Tôi xin thưa rõ là: Thiên địa tạo hoá hoàn toàn do một khí vận hành, cho nên trong đạo giáo có thuyết "Nhất khí hoá tam thanh" (một khí hoá ba trong), kỳ thực không phải một khí chỉ hoá được ba trong, mà một khí có thể hoá muôn ngàn. Trời có thiên khí, dất có địa khí, người có nhân khí; trời đất người không lúc nào không một thở ra, một hút vào. Nếu như thiên khí dứt tuyệt, trời ắt sa xuống; địa khí dứt tuyệt, đất ắt sụp đổ; nhân khí dứt tuyệt, người hẳn chết queo. Cái điển chân khí này tức là tâm khí . Gần đây khoa học gia ở dương gian mới chỉ khám phá được cái gọi là "Địa tâm dẫn lực", nhưng còn mấy cái lực khác mà họ chưa biết đó là "Thiên tâm dẫn lực" và "Nhân tâm dẫn lực". Cái gì đục thì ngưng động xuống dưới làm đất, đó là do "Địa  tâm dẫn lực". Tính dục động, đó là "Nhân tâm dẫn lực". Ba loại dẫn lực này tạo thành tất cả các hiện tượng, các vật chất trong thế giới. Như trong bốn loại thai sinh, noãn sinh, thấp sinh,và hoá sinh đều do kiếp trước nghiệp trần sâu nặng, sau khi chết đều bị địa tâm hấp dẫn, tự động đoạ địa ngục để Diêm Vương phán xét. Nếu như có kẻ nào tu hành, một điểm tính linh trong nhẹ tự nhiên bay lên trời, âm binh muốn bắt giải xuống âm phủ cũng không được, Giống như một khinh khí cầu chứa đầy hơi, bay lên trong không trung, muốn kéo lại, ắt bị káo theo luôn.
Cho nên người đời thành Tiên Phật hay thành ma quỉ đều do kiếp trước tu hay không tu. Còn nếu muốn siêu độ linh hồn tổ tiên thì phải tạo công đức hiện tai, nếu không sẽ tốn ngàn vàng mà vô ích. Kẻ muốn siêu độ tổ tiên trừ việc lo tu hành bản thân ra, nên ấn tống kinh sách để dạy điều thiện mới là công đức lớn nhất. Bởi Tiên Phật lấy việc xuất thế, độ người thoát khổ làm đại nguyện, thì kinh sách dạy điều thiện là tiếng lòng của Tiên Phật, cốt yếu giúp người đời tu tâm dưỡng tính, cho nên phổ biến kinh điển, ấn tống sách dạy điều thiện chính là phù ho9.p với lòng của Tiên Phật, công đức đó lớn vô cùng, lấy công đức đó mà hồi hướng cho linh hồn tổ tiên, thì tổ tiên thoát khổ mau lẹ nhất. Như muốn tụng kinh siêu độ cũng phải có kinh sách làm bằng, điểm đó người đời không thể không biết. Ngoài ra, giúp kẻ nghèo thương kẻ khổ, công đức đó cũng đủ làm nên thiện nghiệp.

Dương Sinh:  Lời vàng của Thiên Tuế rất đúng lẽ đạo, Tiên Phật truyền pháp thuyết giáo đều ghi vào kinh sách, phổ kinh in sách đúng là hợp ý trời, công đức đó lớn vô cùng, linh hồn tổ tiên tự nhiên được "Thiên tâm dẫn lực" hút lên chốn siêu sinh cực lạc.
Tế Phật:  Lời của Dương Sinh thật hợp nghĩa đạo "Thiên kinh" tức là "Địa nghĩa", người đời phải hết, đó là nhân cách hoàn toàn, sẽ được dự phần Thiên Tiên vậy.
Thiên Tuế:  Con nai này đã luân hoài ba kiếp ở thế gian là do cái nhân quả trước, ta xoá bỏ các tội xưa, sai Tướng Quân dẫn con nai này tới Dinh Hoàn Hồn cho nó uống nước hoàn hồn.
Tướng Quân: Tuân lệnh, xin mời Dương Thiện Sinh đi với tôi hầu quan sát cho thật tỏ tường.
Dương Sinh:  Phải phải, đa tạ Tướng Quân. Kế bên quả nhiên có một cái dinh trên đề Dinh Hoàn Hồn, trong đó có một ông già đưa từng chén nước cho mỗi con vật uống, con nào con nấy đều hiện lại hình người, có trai có gái, có già có trẻ.
Tướng Quân:  Dương Sinh hãy đứng ở bên cạnh mà coi, để tôi lấy một chén nước hoàn hồn cho con nai này uống.
Dương Sinh:  Được, xin cứ tuỳ tiện. Ý! Giống hệt như ma bày thuật. Con nai rừng sau khi uống xong thì hình hai lập tức thay đổi biến thành một ông già khoảng ngoài 50 tuổi, đầu trọc, trên đỉnh sọ quả nhiên có dấu hương châm thụ giới, đó là tướng mạo sau khi hoàn tục ư?
Tướng Quân:  Đúng đó. Người này đã xuất gia còn hoàn tục, bỏ chay phá giới, cho nên mới bị chuyển kiếp thành loài thú, vì sau khi uống xong nước hoàn hồn ảo thân biến hoá, tức khắc hoàn xác thoát thai, khôi phục nguyên hình.
Dương Sinh:  Không biết vị người nai này hiện tại xử lý ra sao?
Tướng Quân:  Vị người nai này hoàn hồn xong thì ngừng, đó là nhiệm vụ của phủ tôi, sau khi phục hồn và xác xong, giao qua Thập Điện, Diêm Dương chuyên lo việc chuyển kiếp ở đây tra xét theo "nhân" kiếp trước, cho tái đầu thai làm người, theo tôi biết những kẻ mà do bản phủ giao, khi chuyển kiếp luân hồi đều giáng sinh vào cá nhà nghèo khổ, hoặc thành người bất toàn, phải lãnh nghiệp báo đày ải, nếu kẻ nào biết tu hành, ngày sau sẽ được chuyển sanh cảnh giới tốt đẹp.
Tế Phật:  Dương Sinh, thời giờ có hạn, chúng ta từ giã Tướng Quân, trở lại nơi phủ cáo từ Thiên Tuế.
Dương Sinh:  Đa ta sự chỉ giáo của Tướng Quân, vì giờ trở lại Hiền Đường đã tới, không thể ở lâu, xin tạm biệt.
Tế Phật:  Đa tạ sự chỉ giáo của Thiên Tuế, vì đã trễ giờ, chúng tôi phải sửa soạn trở về Hiền Đường gấp, ngày khác gặp lại xin lãnh giáo thêm.
Thiên Tuế:  Miễn lễ. Giữ quý vị không tiện, mông lại sớm được tiếp đón quý vị tại bản phủ.
Tế Phật:  Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật, đa số chúng sinh trong thiên hạ đều không rõ, cho nên ta dự tính dẫn Dương Sinh tới xem xét cho thật tỏ tường, hầu tả lại cho người đời hiểu thấu, chắc lần tới sẽ còn làm rộn nhiều hơn nữa.
Thiên Tuế:  Rất hoan nghênh. Tướng Quân thân hành tiễn đưa Tế Phật cùng Dương Thiên Sinh.
Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuế cùng chư vị Tiên Quan, xin cáo từ.
Tế Phật:  Mau lên toà sen, sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin tiễn bước.
Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống toà sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI MỐT

 DẠO PHỦ HOÀN HỒN BỐN LOÀI SINH VẬT LẦN THỨ BA

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 9 tháng 12 năm Bính Thìn (1976)

 

Thơ:

Thuỷ tộc phù du khổ hải trung

Phi cầm tẩu thú truỵ hàn phong

Sinh tiền thiên ái tà đồ lạc

Xuân mộng hồn hồi sắc tướng không.

 

Dịch:

Tôm cá nổi chìm biển khổ oan

Chim bay thú chạy lạnh tràn lan

Kiếp trần tham dục đường mê lạc

Xuân mộng hồn lìa sắc tướng tan.

 

Tế Phật:  Đường âm phủ lạnh lẽo, mỗi ngày đều vang tiếng khóc than, người chết thì khóc lóc buồn rầu, thú vật chết thì kêu thương không ngớt. Bốn loài vật ra đời ở nhân gian bị người đời giết hại quá nhiều. Chúng bị thọc tiết, cắt cổ, mổ bụng do đó còn kinh hồn hoảng vía, muốn tìm đường sống nhưng sức yếu chẳng thể thoát thân, nên chỉ còn biết kêu la cầu khẩn, giống y như những kẻ bị xử trảm ở pháp trường. Điểm tánh linh phất phơ rơi rớt lạc xuống cửu tuyền được Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật thâu giữ những hồn phách đó để phục hồi lại hình người, rồi căn cứ vào nghiệp chướng cùng cái nhân tạo ra từ các kiếp trước mà tuỳ duyên xét xử. Chúng sinh nếu không tuân hành chánh đạo, lòng lang dạ thú làm thương tổn lẽ trời mà không sợ, sau khi chết ắt bị luân hồi thành bốn loài sinh vật: thai, noãn, thấp, hoá. Dương Sinh sửa soạn dạo âm ti.

Dương Sinh:  Thưa ân sư, thân phụ một môn sinh của Hiền Đường vừa khuất núi, nên lòng còn đau đớn không nguôi, tại sao trời không gia ân cho kẻ hiền lành được sống lâu để góp công vào sự nghiệp phổ biến đạo giáo của Thánh Hiền Đường mà lại sớm gọi về Trời.

Tế Phật:  Sinh, lão, bệnh, tử, dù công, hầu, khanh, tướng sống vinh hoa phú quí, cả giang sơn trong tầm mắt tầm tay mà còn phải buông xuôi chầu trời, huống chi người bình thường. Chỉ cần lúc còn sống biết tu nhân tích đức, ắt khi chết, thân tuy mất mà tinh thần đạo đức còn lưu mãi ở thế gian, cho nên tinh thần triết nhân mới bất tử. Ở thế gian có người nào là không chết đâu, con chớ quá đau lòng.

Dương Sinh:  Con muốn được gặp mặt ông ấy để biết rõ tình trạng sau khi qui tiên. Nghe con cháu ông ấy nói trước lúc mất hai ngày, tự biết là duyên trần đã hết, sắp về cõi Phật, thì con không hiểu công phu tu đạo tới mức nào mới đạt được cảnh giới đó?

Thiên Tuế:  Vì cơ duyên chưa đủ, cho nên không có ách nào gặp mặt được. Còn việc tu đạo mà biết ngày chết, đó là lòng chân thành đã cảm động tới thiên địa quỉ thần, nên được báo trước việc sẽ đến. Đó cũng là để chứng minh có quỉ thần thực chứ không phải chỉ là chuyện hoang đường. Nếu như siêng năng tu đạo ắt việc sanh tử ở trong lòng bàn tay, lật ra là thấy chẳng có gì ly kỳ cả, chỉ là sự cảm ứng thôi. Để khỏi trễ giờ dạo âm ti, mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Xin vâng lời. Thưa con đã sẵn sàng, mời thầy khởi hành ...

Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh:  Đã thấy Thiên Tuế và các vị Tiên Quan của Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật ở phía trước.

Tế Phật:  Mau tới trước vái chào.

Dương Sinh: Kính chào Thiên Tuế cùng chư vị Tiên Quan, hôm nay lại đến làm rộn quí vị để được chỉ giáo thêm.

Thiên Tuế:  Miễn lễ. Thầy trò quí vị không ngại bản phủ súc vật đầy nghẹt, ba lần tới lều tranh, tôi vô cùng sung sướng, xin mời hai vị theo tôi vào trong phủ.

Dương Sinh:  Bản đường phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, do tôi đảm nhiệm việc dạo âm ti, biết là hết sức vinh dự, nhưng còn nông cạn về đạo học, tình hình ở Minh phủ hầu hết lại chưa tỏ tường. Vậy xin Thiên Tuế chỉ cho tôi biết thêm về tình trạng hiện thời của Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật, hầu người đời biết rõ mà tránh phạm phải những lỗi lầm.

Thiên Tuế:  Tôi đích thân dẫn Dương Sinh đi thăm sân hành  hình, cùng ở bên cạnh giải thích cặn kẽ, như vậy hẳn là sẽ hiểu rành mạch.

Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuế.

Thiên Tuế:  Dương Sinh hãy theo tôi tới chính điện.

Dương Sinh:  Tuân lệnh. Kìa! Con nai rừng kia tại sao lại đón đường chào Thiên Tuế, hình như nó có điều chi muốn nói?

Thiên Tuế:  Đúng đấy, con nai này kiếp trước là đệ tử của Phật, nhưng vì thân nhuộm trọng bệnh, sinh lòng oán ghét Phật Tổ vì đã không  bảo bọc, bèn bỏ chạy phá giới, phản tục hoàn trần, lập gia đình đẻ con, nhưng vẫn còn huỷ báng Thần Phật . Sau khi chết phải đầu thai làm thân nai. Lần này là lần luân hồi thứ ba, nai được sanh tại núi sâu, ăn cỏ xanh, uống nước suối, suốt đời chịu khổ vì gió sương, để trả nghiệp kiếp trước. Ở chốn non sâu, ăn cỏ, uống sương sống như một vị đạo sĩ tu hành, đó gọi là nhân quả báo ứng. Hiện nay con nai đã hoàn toàn trả xong nghiệp báo, bị âm khí dắt đến điện địa phủ, nghiêng đầu làm lễ là ý muốn nhờ ta giải cứu, để phục hồi nhân thân.

Dương Sinh:  Một niệm nghĩ sai, bèn bị ác báo, âm luật khó thoát, thiệt là đáng sợ. Nhưng tôi còn có điều chưa rõ, bốn loài sinh vật, sau khi chết đi tại sao lại tự nhiên bị âm sai dắt xuống âm phủ, lẽ đó là thế nào vậy?

Thiên Tuế:  Tôi xin thưa rõ là: Thiên địa tạo hoá hoàn toàn do một khí vận hành, cho nên trong đạo giáo có thuyết "Nhất khí hoá tam thanh" (một khí hoá ba trong), kỳ thực không phải một khí chỉ hoá được ba trong, mà một khí có thể hoá muôn ngàn. Trời có thiên khí, dất có địa khí, người có nhân khí; trời đất người không lúc nào không một thở ra, một hút vào. Nếu như thiên khí dứt tuyệt, trời ắt sa xuống; địa khí dứt tuyệt, đất ắt sụp đổ; nhân khí dứt tuyệt, người hẳn chết queo. Cái điển chân khí này tức là tâm khí . Gần đây khoa học gia ở dương gian mới chỉ khám phá được cái gọi là "Địa tâm dẫn lực", nhưng còn mấy cái lực khác mà họ chưa biết đó là "Thiên tâm dẫn lực" và "Nhân tâm dẫn lực". Cái gì đục thì ngưng động xuống dưới làm đất, đó là do "Địa  tâm dẫn lực". Tính dục động, đó là "Nhân tâm dẫn lực". Ba loại dẫn lực này tạo thành tất cả các hiện tượng, các vật chất trong thế giới. Như trong bốn loại thai sinh, noãn sinh, thấp sinh,và hoá sinh đều do kiếp trước nghiệp trần sâu nặng, sau khi chết đều bị địa tâm hấp dẫn, tự động đoạ địa ngục để Diêm Vương phán xét. Nếu như có kẻ nào tu hành, một điểm tính linh trong nhẹ tự nhiên bay lên trời, âm binh muốn bắt giải xuống âm phủ cũng không được, Giống như một khinh khí cầu chứa đầy hơi, bay lên trong không trung, muốn kéo lại, ắt bị káo theo luôn.

Cho nên người đời thành Tiên Phật hay thành ma quỉ đều do kiếp trước tu hay không tu. Còn nếu muốn siêu độ linh hồn tổ tiên thì phải tạo công đức hiện tai, nếu không sẽ tốn ngàn vàng mà vô ích. Kẻ muốn siêu độ tổ tiên trừ việc lo tu hành bản thân ra, nên ấn tống kinh sách để dạy điều thiện mới là công đức lớn nhất. Bởi Tiên Phật lấy việc xuất thế, độ người thoát khổ làm đại nguyện, thì kinh sách dạy điều thiện là tiếng lòng của Tiên Phật, cốt yếu giúp người đời tu tâm dưỡng tính, cho nên phổ biến kinh điển, ấn tống sách dạy điều thiện chính là phù ho9.p với lòng của Tiên Phật, công đức đó lớn vô cùng, lấy công đức đó mà hồi hướng cho linh hồn tổ tiên, thì tổ tiên thoát khổ mau lẹ nhất. Như muốn tụng kinh siêu độ cũng phải có kinh sách làm bằng, điểm đó người đời không thể không biết. Ngoài ra, giúp kẻ nghèo thương kẻ khổ, công đức đó cũng đủ làm nên thiện nghiệp.

Dương Sinh:  Lời vàng của Thiên Tuế rất đúng lẽ đạo, Tiên Phật truyền pháp thuyết giáo đều ghi vào kinh sách, phổ kinh in sách đúng là hợp ý trời, công đức đó lớn vô cùng, linh hồn tổ tiên tự nhiên được "Thiên tâm dẫn lực" hút lên chốn siêu sinh cực lạc.

Tế Phật:  Lời của Dương Sinh thật hợp nghĩa đạo "Thiên kinh" tức là "Địa nghĩa", người đời phải hết, đó là nhân cách hoàn toàn, sẽ được dự phần Thiên Tiên vậy.

Thiên Tuế:  Con nai này đã luân hoài ba kiếp ở thế gian là do cái nhân quả trước, ta xoá bỏ các tội xưa, sai Tướng Quân dẫn con nai này tới Dinh Hoàn Hồn cho nó uống nước hoàn hồn.

Tướng Quân: Tuân lệnh, xin mời Dương Thiện Sinh đi với tôi hầu quan sát cho thật tỏ tường.

Dương Sinh:  Phải phải, đa tạ Tướng Quân. Kế bên quả nhiên có một cái dinh trên đề Dinh Hoàn Hồn, trong đó có một ông già đưa từng chén nước cho mỗi con vật uống, con nào con nấy đều hiện lại hình người, có trai có gái, có già có trẻ.

Tướng Quân:  Dương Sinh hãy đứng ở bên cạnh mà coi, để tôi lấy một chén nước hoàn hồn cho con nai này uống.

Dương Sinh:  Được, xin cứ tuỳ tiện. Ý! Giống hệt như ma bày thuật. Con nai rừng sau khi uống xong thì hình hai lập tức thay đổi biến thành một ông già khoảng ngoài 50 tuổi, đầu trọc, trên đỉnh sọ quả nhiên có dấu hương châm thụ giới, đó là tướng mạo sau khi hoàn tục ư?

Tướng Quân:  Đúng đó. Người này đã xuất gia còn hoàn tục, bỏ chay phá giới, cho nên mới bị chuyển kiếp thành loài thú, vì sau khi uống xong nước hoàn hồn ảo thân biến hoá, tức khắc hoàn xác thoát thai, khôi phục nguyên hình.

Dương Sinh:  Không biết vị người nai này hiện tại xử lý ra sao?

Tướng Quân:  Vị người nai này hoàn hồn xong thì ngừng, đó là nhiệm vụ của phủ tôi, sau khi phục hồn và xác xong, giao qua Thập Điện, Diêm Dương chuyên lo việc chuyển kiếp ở đây tra xét theo "nhân" kiếp trước, cho tái đầu thai làm người, theo tôi biết những kẻ mà do bản phủ giao, khi chuyển kiếp luân hồi đều giáng sinh vào cá nhà nghèo khổ, hoặc thành người bất toàn, phải lãnh nghiệp báo đày ải, nếu kẻ nào biết tu hành, ngày sau sẽ được chuyển sanh cảnh giới tốt đẹp.

Tế Phật:  Dương Sinh, thời giờ có hạn, chúng ta từ giã Tướng Quân, trở lại nơi phủ cáo từ Thiên Tuế.

Dương Sinh:  Đa ta sự chỉ giáo của Tướng Quân, vì giờ trở lại Hiền Đường đã tới, không thể ở lâu, xin tạm biệt.

Tế Phật:  Đa tạ sự chỉ giáo của Thiên Tuế, vì đã trễ giờ, chúng tôi phải sửa soạn trở về Hiền Đường gấp, ngày khác gặp lại xin lãnh giáo thêm.

Thiên Tuế:  Miễn lễ. Giữ quý vị không tiện, mông lại sớm được tiếp đón quý vị tại bản phủ.

Tế Phật:  Phủ Hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật, đa số chúng sinh trong thiên hạ đều không rõ, cho nên ta dự tính dẫn Dương Sinh tới xem xét cho thật tỏ tường, hầu tả lại cho người đời hiểu thấu, chắc lần tới sẽ còn làm rộn nhiều hơn nữa.

Thiên Tuế:  Rất hoan nghênh. Tướng Quân thân hành tiễn đưa Tế Phật cùng Dương Thiên Sinh.

Dương Sinh:  Đa tạ Thiên Tuế cùng chư vị Tiên Quan, xin cáo từ.

Tế Phật:  Mau lên toà sen, sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin tiễn bước.

Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống toà sen, hồn phách nhập thể xác.

Tế Phật: Đa tạ. Vì thời giờ eo hẹp, xin Thiên Tuê dẫn Dương Sinh đi thăm các cơ quan ở bốn nơi cho tỏ tường để còn viết vào sách Địa Ngục Du Ký.

Thiên Tuế:  Không có chi. Xin đi theo thăm các cơ quan.

Dương Sinh:  Ở đây bày biện thật là kỳ diệu, y như máy hút bụi ở dương gian, từng con muỗi một không biết từ đâu, lại bị hút vào cả đàn rơi xuống trắng phau như mảng bông tuyết, cứ giỹa giụa hoài.

Thiên Tuế:  Đó là những con muỗi bị người ta đập hoặc bị phu  thuốc chết, được địa khí hút xuống bản phủ, mỗi bầy có khoảng 500 con, các linh hồn tán loạn tụ lại thành một linh hồn duy nhất, rơi xuống một bên, lấy nước hoàn hồn tưỡi liền phục hồi nhân thân.

Dương Sinh:  Thiết bị như vậy thật là hoàn chỉnh, nhưng làm cách nào mà hay quá vậy?

Thiên Tuế:  Đó là sự diệu dụng của địa tâm dẫn lực, địa khí đã dẫn đưa nó, bởi vì linh hồn muỗi bị phân tán, tính nó đục, sau khi chết tự nhiên bị hút tới đây. Tính linh tan nhỏ ra như cát, tụ lại thành từng đống, cái khéo của hoàn hồn là như thế. Chúng ta đi coi nơi khác.

Dương Sinh:  Cái khu đất rộng này nhốt toàn thú vật, bình thường ít thấy các loại thú lạ lùng này, cọp và sư tử đều có như ở sở thú, còn gà vịt heo thì nhiều vô cùng...Đã về tới phủ rồi, không rõ Thiên Tuế có điều chi chỉ giáo thêm không?

Thiên Tuế:  Tôi đang lo xử một vụ kiện, con gà trống phía trước kia, đến khiếu nại, để tôi đưa hồ sơ lý lịch của con gà này cho Dương Sinh coi: Con gà trống này lúc còn sống là con trai nhà giàu, sanh ở bắc bộ Đài Loan, vì ỷ giàu có thường gian dâm với vợ con kẻ khác, đã từng dùng tiền bạc phá trinh nhiều thiếu nữ để thoả mãn nhục dục, càng ham thú khoái lạc ở các động mãi dâm. Ác nghiệp quá nặng, cho nên phải đầu thai làm gà trống suốt năm kiếp, nay nợ ác nghiệp đã trả xong, hồn tới bản phủ xin được hoàn hồn.

Dương Sinh:  Thật sợ quá, gà do người biến ra, vậy ăn thịt gà có tội không?

Thiên Tuế:  Các vật cùng một sinh linh, chỉ có hình thể khác nhau mà thôi, linh tính của nó với người tương đồng. Người đời thường thích ăn thịt các loài, đương nhiên nếu luận về việc dinh dưỡng thì các chất thịt trứng, tính dinh dưỡng rất cao, ăn thì thân thể cường tráng. Nhưng họ không biết rằng bốn loài sinh vật đó đều do người có tội đầu thai, thân họ có một thứ khí bất chính. Và lúc người giết chết loài vật, nó cố gắng chạy trốn, lòng sợ hãi, máu trong mình xáo trộn, ngũ tạng lục phủ sanh ra chất độc, người đem nó giết đi, rồi ăn máu thịt nó, tuy là có lợi ích, nhưng cái hại ngầm ẩn nấu ở bên trong. Người ta, lúc lòng bấn loạn, kinh hoàng, máu cũng biến chất, nếu như gặp trường hợp này hoài, thân thể ắt sẽ ngã bệnh chung do tâm lý phát sinh ra ở sinh lý. Người ta nếu khoẻ mạnh, mặt mày hồng hào, khi chết thì toàn thân xám xịt gọi là tử thi. Người ăn thịt động vật chết có nguyên tố không sạch, thiếu nguyên tố tinh khiết ban đàu ở bên trong, lợi và hại đều tồn tại. Khoa học gia cũng có luận về điều này trong mục dưỡng sinh. Phàm là kẻ tu đạo, không thể một lúc cấm ngay đồ ăn hôi tanh, nhưng nếu giảm bớt từ từ được thì tốt, để miễn trừ trược khí xâm nhập vào thân, nếu không vậy thì muốn đạt đạo quả thanh nhẹ tinh khiết sẽ rất khó khăn. Còn bàn về tội hay vô tội thì xin dành vào dịp khác.

Dương Sinh:  Điều Thiên Tuế nói rất hợp với nguyên lý của khoa học, muốn ăn hay không ăn tuỳ ý mỗi người. Nhưng điều lợi điều hại đã biết rõ, muốn như thế nào thì đều do tự mình quyết định. Xin hỏi lại Thiên Tuế, phía trước có một con khỉ  đột cùng con chim anh vũ, cử chỉ của con khỉ đột giống như người, tiếng của chim anh vũ y hệt tiếng người, như vậy có phải chúng thuộc hàng cao cấp trong loài động vật không?

Thiên Tuế:  Cử chỉ của khỉ đột gióng người, đầu óc cũng rất thông minh là bởi khi còn sống là kẻ sáng suốt song tu lầm lẫn cho nên kiếp này đầu thai làm thú. Chim anh vũ kiếp trước là kẻ nói nhiều, cùng hại kẻ khác tan nhà mất mạng nên kiếp này bị nhốt trong lồng, học nghe và nói tiếng người, ngoài ra không điều gì hơn, đáng tiếc anh hùng thiếu đất dụng võ. Người đời nhất cử nhất động nếu sai đạo lý, sau khio chết đều đàu thai làm chim bay thú chạy, không biết chừng nào mới giải được nghiệp, không thể không cẩn trọng.

Tế Phật:  Vì thì giờ eo hẹp, việc thăm Phủ hoàn Hồn Bốn Loài Sinh Vật của chúng ta kể như đã xong. Đại khái thì thế nhân có thể hiểu được rằng nơi đây là chốn hoàn hồn, còn các việc khác nếu bị Vua Chuyển Kiếp ở Thập Điện phán chuyển bốn loài sinh vật nếu chưa hoàn chuyển hồn xong, không phải phần việc ở đây, điểm này người đời nên rõ. Dương Sinh chúng ta sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Đa tạ, Thiên Tuế cùng các vị Tiên Quan đã hết lòng chỉ giáo, vì đã cận giờ rồi, thầy trò chúng tôi phải trở lại dương gian xin cáo biệt chư vị.

Thiên Tuế:  Không dám. Có điều chi sơ xuất xin rộn lòng tha thứ, chư vị Tướng Quân hãy đưa chân Tế Phật cùng Dương Sinh.

Tế Phật:  Mau rời điện, chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin thầy khởi hành.

Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh mau xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI HAI

 DẠO ĐỆ TỨ ĐIỆN GẶP GỠ NGŨ QUAN VƯƠNG

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 16 tháng 1 năm Đinh Tỵ (1977)

 

Thơ:

Nhân sanh tẩu mã khán hoa đăng

Hãn lộ hốt hốt tuế nguyệt tăng

Vạn tượng canh tân đơn chính thực

Nhất nguyên phục thuỷ dục phi thăng.

Dịch:

Hoa đèn ngựa chạy kiếp người ta

Năm tháng qua mau  thoáng chốc già

Tâm kết bồ đề muôn vẻ mới

Đầu năm bay vút cõi trời xa.

 

Tế Phật:  Năm Bính Thìn đã qua, Hiền Đường từ rằm tháng tám năm con Rồng phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, nháy mắt đã hơn nửa năm, người đời quay cuồng ví như đèn kéo quân, trong một sát na thời gian vút qua, người đời gặp được bao đêm rằm tháng giêng? Cảm thấy tuổi tác mỗi ngày một lớn, trước mặt thấy nhiều trẻ thơ cầm đèn lồng đi chơi, soi gương giật mình thấy tóc trắng, mặt sạm! Không sớm tu thân còn đợi tới khi nào? Tại trung tâm đan điên, nơi khí trời đất tụ hội, hoà hợp thành viên thuốc tiên, tới lúc vòng tuần hoàn của một năm trở lại điểm khởi đầu, lúc vạn vật canh tân mới mẻ, tiên đơn chín rụng kết quả bồ đề thì có thể tự thoát xác phi thăng lên cõi Đại La. Kế hoạch của một năm ở mùa xuân, sự quý báu của cả đời người là lúc nhỏ phải thương tiếc thời gian, kính trọng mạng sống, ấp ủ niềm tin, sợ gì ma nạn bủa vây, hy vọng  ở tương lai sáng sủa, đi theo đường ngay thẳng, nguyện cầu đạo lớn thuận buồm xuôi gió. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh hãy lên tinh thần.

Dương Sinh:  Kính chúc phát tài.

Tế Phật:  Chúc mừng, chúc mừng . làm sư ta không nghĩ đến "phát tài" ta đã có "ngọc vàng đầy nhà" chỉ mong "sớm đẻ con cưng".

Dương Sinh:  Người xuất gia sao lại còn mong "sớm đẻ con cưng", không phải là tự huỷ hoại giới trong sạch của Phật hay sao?

Tế Phật:  Con hiểu sai ý rồi. Ta nghĩ rằng Trời có thể đẻ nhiều con cưng thông minh trí tuệ, đẻ ít  loại thông minh gian xảo thì thiên hạ sớm được thanh bình, ta cũng có thể tiêu diêu tự tại không phải lặn lội phong trần, chỉ vì độ chúng sinh mà phải quá lao tâm khổ trí.

Dương Sinh:  Lời thầy nói thật siêu diệu, nhưng hiện tại người đời mong sanh quí tử để cầu con mình lớn lên tương lai kiếm được nhiều tiền, phát tài lớn. Cho nên chúc mừng sớm sanh quí tử cùng phát tài, người đời sung sướng lắm.

Tế Phật:  Biết lừa lọc kiếm tiền chẳng phải chỉ toàn "quí tử" mà còn có nhiều "tiên nữ" nữa! Ha ha! Vui miẹng nói chơi tạo nên khẩu nghiệp! tội quá! tội quá! Chúng ta chuẩn bị dạo âm phủ, con mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Đài sen năm nay tại sao lại lớn hơn năm ngoái?

Tế Phật:  Trách nhiệm thì nặng mà đạo thì xa, đài sen mở rộng, mau mau tiến đức tu nghiệp, đây là vị đài sen của con, chứng tỏ con có tiến bộ.

Dương Sinh:  Con không dám, tự biết nghiệp chướng còn sâu, làm sao có thể lên tới địa vị đài sen nổi?

Tế Phật:  Hoa sen mọc lên từ bùn nhơ, tự yêu thân sạch, có chi sai lầm. Lên đài sen mau, hôm nay thầy trò mình dạo chơi Đệ Tứ Điện ở âm phủ.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin thầy khởi hành.

Tế Phật:  Bữa nay máu trong tim chảy mạnh, đặc biệt ngâm một bài thơ khuyên người đời:

- Hỡi người đời, sao bận rộn? Đều vì ba bữa, bận không ngớt.

- Hỡi người đời, cầu mong gì? Đều vì danh lợi, suốt ngày lo.

- Hỡi người đời, mê say gì? Đều vì tình ái, thân gầy mòn.

- Hỡi người đời, nghĩ điều chi? Đều vì vọng niệm đầu rối bời.

- Hỡi người đời, được những gì? Suốt đời bận, tới chết hai tay không.

- Hỡi người đời, dâm ra sao? Vợ con bị hiếp, hận giàu sang.

- Hỡi người đời, đợi cái gì?Quay về bờ giác, lo tu đạo.

- Hỡi người đời, tu cái gì? Lìa bùn không nhiễm, chi giao du.

- Hỡi người đời, giao du đau? Cùng lên thuyền từ, vui mênh mông.

Đã tới nơi, xuống đài sen mau, Đệ Tứ Điện Minh Phủ ở ngay trước mặt.

Dương Sinh:  Kìa Đệ Tứ Điện ở phía trước.

Tế Phật:  Ngũ Quan Vương cùng chư Tiên Quan đã xuất điện, chúng ta mau tới trước vái chào.

Dương Sinh:  Kính chào Ngũ Quan Vương cùng chư vị Tiên Quan, tôi là Dương Sinh môn đệ của Thánh Đế thuộc Đài Trung Thánh Hiền Đường, phụng mệnh viết sách, bữa nay do Tế Phật dẫn đạo được may mắn tới thăm quí điện xin chỉ giáo nhiều cho.

Ngũ Quan Vương:  Miễn lễ, mau đứng dậy, năm mới khai bút lao khổ, vì viết sách mà phải bôn ba ở chín suối, tinh thần môn đệ Thánh Hiền Đường thật đáng khen. Mời Tế Phật cùng Thiện Sinh theo tôi vào điện nghỉ ngơi, đàm đạo.

Dương Sinh:  Đa tạ Minh Vương đã tiếp đãi nồng hậu.

Minh Vương:  Mời ngồi, Tướng Quân mau dâng rượu Quỳnh Tương.

Dương Sinh:  Đa tạ Minh Vương.

Tế Phật:  Dương Sinh, con có phúc lắm mới được Ngũ Quan Vương đặc biệt ban cho rượu Quỳnh Tương của người chỉ để dùng riêng. Đó là của quí của tiên gia. Con uống xong trí tuệ sẽ được bồi bổ thêm.

Minh Vương: Xin Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh chớ khách sáo, mau dùng rượu.

Minh Vương:  Mùi vị thơm ngát, ngập tràn tim  phổi, cảm giác vô cùng ấm áp sảng khoái. Cảm tạ Minh Vương đã đặc biệt ân ban, tôi nguyện đem hết sức mình hoàn thành trách nhiệm viết sách.

Minh Vương: Chớ khách sáo, rượu Quỳnh Tương này do cung Dao Trì ban tặng, Thập Điện Diêm Vương đều có, uống nó linh tính sẽ tăng thêm điện quang, các phán quan ở âm phủ chỉ được uống trà tiên, âm binh chỉ được uống thanh trà, vì quả vị bất đồng cho nên sự đãi ngộ hưởng thụ tự nhiên cũng khác.

Dương Sinh:  Tình trạng phát xét các tội hồn của quí điện ra sao?

Minh Vương: Tôi cai quản mười sáu địa ngục nhỏ, ngoài ra còn có phòng hờ, vì người đời càng ngày càng phạm nhiều tội ác. Địa ngục chia ra nhiều tầng phụ trách, mỗi tầng có các ty. Phàm tại thế, khi làm điều xấu xa tồi tệ, sau khi chết vào ngã Quỉ Môn Quan, lên đứng trước đài gương soi nghiệp ác (Nghiệt kính đài) để chiếu lại nguyên hình, sau khi có chứng cớ, biết rõ phạm những tội gì mới giải giao cho điện đó giam giữ cùng xử trí. Tôi đang xử một vụ án, mời hai vị theo tôi thẳng đương thăm quan.

Dương Sinh:  Phải phải. Phía trước có hai Tướng Quân đầu trâu mặt ngựa áp giải một nam tội hồn tới, chức vụ có vẻ cũng vào cở Tổng giám đốc hoặc Thanh tra gì đó, mặt mày hồng hào, đầu hơi hói, không rõ phạm tội gì mà cử chỉ tỏ ra sợ hãi kinh hoàng.

Minh Vương:  Tội hồn này đầu óc thông minh, tại thế chuyên bán thuốc tây, nhưng về sau muốn làm giàu mau lẹ, vì biết thuốc men rất rành, bèn chế tạo thuốc giả, hại rất nhiều bệnh nhân. Nay tuổi thọ đã hết, bị âm binh áp giải tới đây xử tội.

Tế Phật:  Đã cận giờ, thầy trò mình sửa soạn trở lại Hiền Đường, lần sau tới vào  trong ngục hỏi lại tội hồn này cũng được. Còn đối với Ngũ Quan Vương có điều chi khiếm khuyết, xin lượng thứ.

Minh Vương:  Không có chi. Lệnh cho Tướng Quân cùng quân lính xếp hàng tề chỉnh tiễn đưa.

Tế Phật:  Dương Sinh mau rời điện, sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Đa tạ Minh Vương cùng chư vị Tiên Quan đã tiếp đãi quá nồng hậu, xin tạm biệt.

Tế Phật:  Dương Sinh mau lên đài sen, sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Tuân lệnh, con đã sẵn sàng, xin thầy lên đường.

Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI BA

 DẠO ĐỊA NGỤC ĐỔ THUỐC

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 19 tháng 1 năm Đinh Tỵ (1977)

  

Thơ:

Nguỵ dược dong y thực hại nhân

Tham tiền tổn đức nghiệt tuỳ thân

Hoa Đà tế thế thi nhơn thuật

Bồ Tát tâm trường hoá ngọc tân.

Dịch:

Thuốc giả giết oan vẫn cố dùng

Tham tiền tổn đức nghiệp đeo mang

Hoa Đà cứu thế ban ơn phước

Tấc dạ bồ đề hoá ngọc trong.

 

Tế Phật:  Thế gian không thiếu gì kẻ đánh mất lương tri, mê say tiền bạc, không nghĩ tới đạo đức, như thầy thuốc dở làm chết người, thậm chí chế thuốc giả bán lấy tiền, coi mạng sống con người như cỏ rác, tội ác ngập trời, luật pháp của dương gian tuy nghiêm ngặt nhưng vẫn còn những con thiêu thân không sợ lửa, đem mạng sống ra thử thách pháp luật. Sau khi chết, xuống địa ngục thống khổ không kể xiết, nếu chẳng tin, để ta dẫn Dương Sinh xuống địa ngục hầu chứng minh lời ta nói là thật. Hôm nay sửa soạn dạo âm ti. Dương Sinh lên đài sen.

Dương Sinh:  Không rõ bữa nay mình đi đâu?

Tế Phật:  Đến ngục giam trực thuộc Đệ Tứ Điện, mau sửa soạn lên đường.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng xin ân sư khởi hành.

Tế Phật:  Đã tới nơi, xuống đài sen.

Dương Sinh:  Tới cửa ngục, nghe tiếng than thở cùng nhiều tiếng ói mửa, trên cửa ngục có đề: Ngục Uống Thuốc. Hai vị Tướng Quân đầu trâu mặt ngựa áp giải nhiều nam nữ tội hồn vào ngục. Kìa, Ngục Quan cùng Tướng Quân thân hành ra phía trước đón tiếp chúng ta, Dương Sinh mau tiến lại cvái chào.

Ngục Quan:  Rất vui mừng được đón tiếp Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh từ Thánh Hiền Đường tới thăm bản ngục. Trước đây ít phút tôi có nhận được sắc chỉ của Chúa Công dạy, nên được biết nhị vị sẽ xuống thăm bản ngục hầu tìm rõ thực trạng để viết vào sách Địa Ngục Du Ký cho người đời hiểu rằng địa ngục là có thật, xin mời hai vị theo tôi.

Dương Sinh:  Đa tạ sự tiếp đón nồng hậu của Ngục Quan. Hai bên cửa ngục chất từng đống dược phẩm đủ các loại. Tiến lại gần coi thì thấy có đủ các loại nhãn hiệu của bao thứ tiếng như Hoa, Anh, Nhật v.v... bao che trông thật khéo đẹp. Xin hỏi Ngục Quan, có phải quí ngục cũng buôn bán dược phẩm? Nếu không tại sao ở đây lại bày biện đủ các thứ thuốc thế này? Đến ngay các nhà thuốc lớn ở dương gian cũng không trưng bày số lượng thuốc lớn lao như vậy.

Ngục Quan:  Bản ngục tuyệt nhiên không buôn bán thuốc men. Đây là các thứ thuốc người phàm ở dương gian làm giả. Ở cõi trần chế tạo một vật gì thì ở âm phủ tức khắc hiển hiện ngay ra hình tượng đó. Cho nên chế tạo một lò thuốc giả, hiện ra ngay ở âm phủ, chứng cớ tội lỗi của dương gian lộ ra ngay tại đây, không sai một mảy may, như mặt trăng mặt trời đối chiếu. Điểm này người đời nên biết, đừng nói rằng trong nhà kín có thể làm chuyện xấu xa, nên biết rằng trong chỗ tối tăm cũng có quỉ thần giám sát . Nếu không vậy tội ác của người đời làm sao theo dõi được mà trừng phạt ? Chương Thái Thượng Cảm Ứng có nói: "Hoạ phước vô môn duy nhân tự chiêu. Thiện ác chi báo, như ảnh tuỳ hình" (Hoạ phước không có cửa, chỉ do người tự chuốc. Thiện ác quả báo, như bóng theo hình). Điều đó đúng với lẽ này vậy.

Tế Phật:  Người đời phần lớn không tin nhân quả, nên biết rằng báo ứng của thiện ác, như bóng với hình dưới bóng đèn sáng, người ta có thể thấy hình bóng của chính mình. Khi vào nhà kín không thấy được bóng, vì lẽ đó cho rằng thần không biết quỉ không hay. Nào ngờ trong nơi đen tối, là nơi cư trú của quỉ thần, tự mình đút đầu vào lưới, còn trách gì ai?

Ngục Quan:  Mời hai vị vào trong ngục tham quan.

Dương Sinh:  Trong ngục đều có chấn song sắt vây quanh, cho nên thấy rõ các tội hồn khóc lóc kêu la, âm binh đang dùng từng thùng từng thùng trong có các vật màu đen đổ vào miệng các tội hồn, kẻ nào cũng cố tránh né để cho thuốc khỏi đổ vào miệng mình.

Tế Phật:  Ta dẫn con đến chỗ này xem các giai đoạn đã qua của một tội hồn bị phán đến ngục này.

Ngục Quan:  Được, để tôi dẫn Dương Sinh vào trong ngục thăm quan.

Dương Sinh:  Thiệt là đáng thương, tội hồn này hôm trước ở Đệ Tứ Điện mặt mày hãy còn hồng hào, mới có ba ngày thôi, hiện tại không còn chút máu, tai mắt mũi miệng gò má đều bị chất nước đen dính đầy, không rõ là chất gì?

Ngục Quan:  Tội hồn lúc tại thế chuyên chế tạo thuốc giả làm hại rất nhiều người. Sau khi chết bản ngục dùng thuốc màu đen đổ cho uống, loại thuốc này rất đắng, lại có chứa độc tố, khó nuốt trôi, một khi vào miệng thì ruột gan quặn thắt, vừa đau đớn vừa muốn ói, nhưng ói không ra, đó là sự báo ứng của việc chế thuộc giả.

Dương Sinh:  Tội hồn mặc âu phục này mình mẩy cũng ướt đẫm thuốc màu đen, dơ dáy chịu không nổi, hai mắt thất thần.

Tội Hồn:  Xin cứu mạng tôi! Hỡi Hoà Thượng đại Phật Tổ cùng người cõi trần, hãy mau giải cứu cho tôi, tôi chịu không nổi nữa. Xin bái lạy, như cứu được tôi, kiếp tới tôi xin làm trâu chó để báo đáp ân đức cao dày. Trên dương gian tôi còn nhiều tiền bạc lắm, hai vị có thể kêu con cái tôi nó đưa cho.

Ngục Quan:  Câm miệng! Vị này là Phật Sống Tế Công không phải là Hoà Thượng ở dương gian, mi đưa tiền cho, Phật Sống đâu có sử dụng được. Tạm cho mi ra để mi thuật lại hết các chuyện làm bậy lúc còn sống cho người này ở dương gian biết rõ. Đây là môn sinh của Quan Thánh Đế Quân, tên Dương Thiện SInh ở Đài Trung phụng chỉ dạo âm ti viết sách quí để khuyên đời. Mi phải khai rõ ràng hầu có thể giảm bớt chút ít tội lỗi.

Tội Hồn:  Cảm tạ đại nhân, nói ra càng thêm xấu hổ nhưng cũng để đời sau sửa chữa lỗi lầm. Tôi lúc còn sống mở nhà thuốc tây, chuyên buôn bán thuốc Trung Hoa và ngoại quốc, lần lần quen thuốc, lâu ngày biết được chút ít thuốc men thông thường, liền nghĩ ngay tới việc làm giàu, mà muốn làm giàu không làm bậy không được, cho nên đã mua một cái máy nhỏ, dùng bột mì hoà với một màu, nguỵ tạo các loại thuốc bán chạy, in các loại bao nhãn giống hệt, chế số lượng lớn. Trừ tiệm của tôi ra đều gởi tới các tiệm khác bán, kiếm được nhiều tiền không biết bao nhiêu mà kể . Đầu xuân năm nay, không may mắc bệnh  chết, hưởng được 52 tuổi. Lúc chết bị hai Tướng Quân đầu trâu mặt ngựa áp giải tới Đài Gương Soi Ác Nghiệp để chiếu rõ lại lúc tôi chế tạo thuốc giả cùng tình trạng buôn gian bán lận, khiến tôi thât' sắc kinh hoàng, không rõ tại sao âm phủ lại có loại máy lợi hại tới mức này, cho nên tôi đã không thể chối cãi được. Ba hôm trước bị Ngũ Quan Vường ở Đệ Tứ Điện xử phạt đày vào Ngục Đổ Thuốc 30 năm. Lúc tôi sắp sửa thụ hình, quá hãi hùng khi nhìn thấy tất cả các loại thuốc giả mà tôi đã chết tạo lúc còn sống gồm đủ laọi, chất đống trước cửa ngục, phép thần thông của âm phủ quả là lớn rộng. Chứng cớ tội lỗi đã rành rành làm sao chối cãi được? Ba bữa sau bị âm binh đổ cho uống loại thuốc nước đen, thiệt là khó nuốt, nếu không uống thì bị đánh đập, bị ép uống, đau đớn mà than không được, sau khi nuốt xong, ruột xé gan bào, muốn mửa mửa không được, hối hận cũng đã lỡ rồi. Hỡi những kẻ buôn bán thuốc men ở thế gian, chớ nên bắt chước tôi. Nếu như có ai lỡ phạm pháp hãy mau mau cải hối, nếu không sau khi chết đi, có khổ thì ráng mà chịu.

Ngục Quan:  Quân súc sanh, mi còn nhiều chuyện phi pháp khác, hãy nói mau, không được giấu diếm, nếu cưỡng lại ta sẽ ra tay xử trị ngay.

Tội Hồn:  Vâng vâng, để tôi nói tiếp. Lúc tôi buôn bán thuốc, vì tham nhiều lời nên có lén bán cả ma tuý để cho thanh  niên nam nữ uống, khiến chúng quay cuồng điên đảo, tạo nên nhiều việc bất hạnh, tội thiệt đáng chết. Có một lần một người bạn đưa cho tôi một cuốn sách, khuyên đời dạy điều thiện tựa đề là Tiên Phật Thánh Hiền Đường Phủ Thánh Giáo, muốn tôi đọc và nghiền ngẫm để làm việc thiện. Tôi lật xem qua vài trang đều thấy toàn là chuyện Tiên Phật Thần Thánh giáng đàn thuyết luận thi văn, tôi liền quăng đi, nghĩ rằng thời đại khoa học tân tiến này làm gì còn có quỉ thần Tiên Phật, chỉ có bọn mê tín mới tin lời quỉ nói. Nào dè khi chết đi, Diêm Vương lại căn cứ vào lời huỷ báng cùng hành động quăng ném sách gia thêm hình phạt 5 năm. Thì ra Thiện Sinh người thế gian đây cũng là môn sinh của Thánh Hiền Đường ở trên dương thế, tôi thật quá ngu si, xin Phật Sống Tế Công cùng Thiện Sinh giúp đỡ nói với Ngục Quan để sớm thả tôi ra.

Dương Sinh:  Bạch thầy, tội hồn này còn một điểm lương tri, còn hiểu được hai chữ Hiền Đường. Con nhận thấy nên giảm bớt một vài phần tội, không hiểu có được chăng?

Tế Phật:  Lúc sống không tin Tiên Phật, quỉ thần, tự khoe khoa học văn minh, sau khi chết mới hối hận. Ngươi hiện tại ở trong tay quỉ thần, hối hận thì đã muộn, ta vì nghĩ tình người đã có công kể hết những hành vi lúc phạm tội, hầu khi cuốn sách Địa Ngục Du Ký in xong, có thể cảm hoá được thế nhân, ta căn cứ vào một phần công đức trong muôn ngàn đó giú cho ngươi thoát khỏi khổ đau.

Ngục Quan:  Tội thì phải báo ứng, hình phạt dữ để trị kẻ không tuân hành luật pháp, chớ có van xin. Tuy việc chế tạo thuốc giả không trực tiếp hại mạng người nhưng cũng di hại cho cơ thể về sau, đó là gián tiếp sát nhân. Cho nên Minh Vương mới phạt trọng hình.

Tế Phật:  Thời giờ đã cận. Dương Sinh trở lại Hiền Đường, lần sau có duyên hẳn còn trở lại tham quan.

Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã tận tình chỉ giáo, tôi phải về Hiền Đường, mong gặp lại.

Tế Phật:  Mau lên đài sen sửa soạn trở lại Thánh Hiền Đường.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, mời ân sư khởi hành.

Tế Phật:  Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI BỐN

DẠO ĐỊA NGỤC NƯỚC SÔI LUỘC TAY

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 23 tháng 1 năm Đinh Tỵ (1977)

  

Thơ:

Tiểu thâu đại đạo nhạ di sai

Bất nghĩa chi tài phú diệc lưu

Dưỡng tử hồ vi thương tổ đức

Môn đình lạc diệp ý thiêm sầu.

Dịch:

Cướp to trộm nhỏ kết dây oan

Giàu có bất nhân của chẳng còn

Con cháu sao không gìn đức tổ

Sân nhà lá rụng ý thêm buồn.



Tế Phật:  Thế gian trăm nghề có thể làm ăn. Tục ngữ nói: "Cố gắng là mẹ thành công", chỉ cần kiếm tiền cách lương thiện, không phạm luật pháp quốc gia, ắt trên đời hết người chết đói. Nhìn vào xã hội có nhiều kẻ không làm ăn lương thiện, chuyên trộm cắp, gian manh, cướp bóc, giết chóc. Nuôi con không dạy thì tội ở ai ? Thương thay tình cha mẹ phí biết bao mồ hôi nước mắt, nuôi con lớn lên thành du đảng hành động bất lương, phá rối trị an xã hội, tội ác đáng bị tru diệt. Lúc sống xưng hùng xưng bá, lưu lạc giang hồ, ô danh một cõi, nhưng khi chết xuống âm phủ, chịu thúc thủ trong xó ngục, bị âm binh đánh đập chửi bới thật đáng thương. Người đời nếu quả không tin, bữa nay ta dẫn Dương Sinh dạo thăm âm phủ một phen hẵn là biết rõ. Dương SInh sửa soạn dạo âm ti, mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Đa tạ ân sư đã mở đường khai lối. Người đời được nghe lời chỉ dạy của thầy ắt vô cùng cảm động. Xin hỏi ân sư, có nhiều người muốn con nói về việc dạo âm ti cùng thắc mắc là trong lúc thầy đưa con đi dạo âm phủ, nếu như có người thỉnh thầy giáng lâm, thầy có thể phân thân không? Xin thầy vì chúng sinh giải rõ hết mối nghi ngờ.

Tế Phật:  Đó chính là điều chúng sinh thường nghĩ, bữa nay thầy tạm giải thích sơ lược như sau: Ao trong in bóng trăng, sáng của như lau, nếu người đời bắt nó là bắt bóng, cho nên nói "hoa trong gương, trăng trong nước, hư ảo không thực". Phật nói "Phật pháp vô biên"; Tiên nói "Thần thông quảng đại". Tiên Phật chỉ một khối ánh sáng hư linh mà thôi, nhưng ảo hoá vô cùng. Tiên Phật ở trên trời, vầng trăng sáng nơi sông nước, biển khơi đều có ánh trăng, nên nói: "Ngàn sông có nước ngàn sông trăng, vạn dặm không mây vạn dặm trời". Trăng chỉ có một vầng, tại sao lại có thể biến hoá vô cùng như vậy? Bởi vì trăng cao sáng nên có thể phối hợp với trời. Người nếu như tu nhân tích đức, chăm tu đạo lớn, như ba chữ Thánh Hiền Đường khuyên tu, nhưng ba chữ đó lại in sâu trong tim mắt người đời có hàng ngàn vạn, một vầng trăng soi vạn dòng sông. Có thể thí dụ thêm, hiện nay như máy truyền hình, trong đó chỉ có một vị chủ trì, nhà nhà đều mở máy ra coi, đều thấy hiện ra ngàn vạn vị chủ tri, sở dĩ nó ảo diệu như vậy là do một niệm mà tương thông. Người đời nếu như muốn ta giáng lâm, chỉ cần tâm họ và ta tương đồng, cảm ứng đạo giao, ta bèn lập tức giáng lâm trong tim mắt họ. Điểm đó mong thế nhân biết đến. Tế Phật tuy chỉ có một, ta ở trên Trời, phàm kẻ nào có duyên, một có thể hoá muôn ngàn, người người đều có thể nhìn. Kinh có nói: "Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu. Linh SƠn chỉ tại nhĩ tâm đầu. Nhân thân hữu cá Linh Sơn tháp. Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu". (Phật ở Linh Sơn há kiếm xa. Linh Sơn ở tại chính tâm ta. Linh Sơn tháp báu người người có. Mau tới Linh Sơn tháp đó tu). Để khỏi trễ giờ, Dương Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị dạo âm ti mà tham quan.

Dương Sinh:  Thưa thầy con đã sẵn sàng, mời thầy khởi hành...

Tế Phật:  Đã tới nơi, Dương Sinh mau xuống đài sen.

Dương Sinh:  Tuân lệnh, tai nghe tiếng kêu la thảm thiết, trước mắt là các nhà giam nơi địa ngục, trên cửa có bảng đề "Địa Ngục Nước Sôi Luộc Tay".

Tế Phật:  Đây là địa ngục luộc tay bằng nước sôi, trực thuộc Đệ Tứ Điện, chúng ta mau đi tới để còn ra mắt.

Dương Sinh:  Từ bên trong đi ra một nhóm quan viên, có thể là Ngục Quan... Tham bái Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân, hôm nay tôi cùng Tế Phật phụng mệnh đến viếng ngục tham quan, xin chỉ giáo nhiều cho.

Ngục Quan:  Miễn lễ, hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh từ Thánh Hiền Đường tới thăm bản ngục cùng chỉ giáo. Tôi nhận được lệnh của Minh Vương, biết quí vị tới thăm bản ngục, có điều chi khiếm khuyết xin tha thứ.

Tế Phật:  Đã mất quá nhiều thời giờ rồi, việc đến trễ chắc Ngục Quan cũng chẳng ngạc nhiên. Dương Sinh mau theo Ngục Quan vào trong xem xét cho tường tận.

Ngục Quan:  Mời hai vị theo tôi vào trong ngục xem xét để biết rõ tình hình.

Dương Sinh:  Đa tạ, trong ngục đầy nghẹt hơi nước nóng, tiếng kêu la vang dội, hai tay các tội hồn bị xích chặc, quỉ sứ dùng gầu múc nước sôi từ trong thùng xối lên hai tay, tội hồn bị phỏng la thất thanh. Quỉ sứ khác tay cầm roi, nghe kêu la thì đánh đập, tình cảnh thật đáng thương, không rõ họ bị tội gì? Có kẻ quá trẻ cũng chịu hình phạt này.

Ngục Quan:  Mấy tội hồn này tại thế gian phạm tội gian tham, trộm cắp cho nên sau khi chết phải chịu thụ hình tại bản ngục, tôi kêu vài tội hồn tới để Dương Sinh có dịp nghe họ thuật rõ lại những việc làm sái quấy lúc còn tại thế.

Dương Sinh:  Phải đấy, để tôi hỏi rõ sự tình sái quấy của tội hồn viết vào Địa Ngục Du Ký hầu khuyên răn người đời.

Ngục Quan:  Tôi tạm tha ba tội hồn và ra lệnh cho tội hồn thứ nhất cung khai hết với Dương Sinh những hành vi gây ác nghiệp lúc còn sống .

Tội Hồn:  Than ôi! Hai tay tôi lở loét, xin sư phụ cứu tôi, giúp tôi xức thuốc cho bớt đau.

Dương Sinh:  Thấy hai tay tội hồn chảy nước vàng, giống hệt thịt heo thối, xin thầy ban cho họ thuốc.

Tế Phật:  Con không được nhiều lời, hai tay nó gây ác nghiệp, thuốc nào trị được sự đau đớn  của bàn tay ác độc này.

Ngục Quan:  Quân súc sanh, không được cầu xin cứu khổ bừa bãi, hãy đem việc làm lúc còn sống kể ra mau.

Tội Hồn:  À! Lúc tôi còn sống vì gia đình giàu có, được nuôi dưỡng quá đầy đủ, kết bè nạp đảng với đám ăn rồi không lo làm việc, lang thang tại các quán cà phê, giỡn cợt cùng gái giang hồ, nhập bọn với gái buôn phấn bán hương sống đời truỵ lạc. Cha mẹ khuyên lơn mấy cũng không nghe, sau cùng bị cha mẹ đăng báo từ. Tôi mang mối hận trong lòng, bỏ nhà theo bọn du thủ du thực, đám đầu trộm đuôi cướp, bị chúng dẫn dụ dạy cho nghề móc túi. Thường biểu diễn mánh khoé "tay thần" trên xe buýt hay tại các trạm xe công cộng đông đúc người qua lại.

Ngục Quan:  Quân súc sanh, khi nói không được dùng tiếng "tay thần" mà phải dùng tiếng 'tay quái".

Tội Hồn:  Không chỉ hành nghề móc túi, trộm tiền bạc mà thôi, vì sau đó tôi cho rằng không kiếm được nhiều lời bằng xâm nhập các cư xá ăn trộm tài vật. Trong đời tôi kiếm dược cả trăm vạn tiền tài vật, một lần trong lúc đang lén lấy đồ thì bị lộ, người hàng xóm rượt đuổi, không may bị bắt đưa ra pháp luật, quan toà xử tội, tống giam vào ngục chịu hình phạt. Sau khi mãn hạn tù, không tự hối cãi từ bỏ tính xấu mà lại vẫn tiếp tục trộm cắp như trước. Đến năm 41 tuổi, vì tửu sắc quá độ, mắc bệnh ung nhọt mà chết. Khi nằm bệnh, không một bạn trộm cắp nào tới lui thăm hỏi, cho nên buồn rầu mà thác. Lúc chết bị quỉ đầu trâu mặt ngựa tới áp giải xuống địa ngục này dùng roi vọt đnáh đập. Sau khi bị xử án và bị tống giam vào ngục, mới biết là bị giảm thọ 9 năm, hiện thời ác nghiệp báo ứng, tôi không conbiết nói sao.

Ngục Quan:  Mi hối hận thì đã trễ rồi. Nếu như sau khi ra khỏi ngục mà mi biết hối cải trở thành kẻ hiền lương lập công chuộc tội thì đâu tới nổi bị giảm thọ cùng sa xuống ngục chịu cực hình? Mi không những phạm tội trộm cắp mà còn phạm tội đại bất hiếu, đó đó Diêm Vương xử phạt giam tại ngục này 32 năm, có tội thì phải ráng mà chịu đựng. Tội hồn thứ hai, mau khai hết những hành vì tồi bại lúc còn sống với Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường trên dương thế.

Tội Hồn:  Tôi lúc sống buôn bán các loại máy móc và kim khí, mấy năm đầu tuy khổ cực sống kiếm được nhiều tiền, lần lần ăn chơi cờ bạc, bên ngoaì tìm hoa, kiếm liễu cùng cưới một cô vợ bé cho ở riêng, vợ lớn tuyệt nhiên không hay biết. Nhưng kinh tế ngày một khó khăn, về sau bèn ký chi phiếu không tiền bảo chứng, mua nhiều kim khí ở hai công xưởng bằng những chi phiếu lớn lao, rồi đem những kim khí đó bán đi, trong ngân hàng chỉ để lại một ít, gọi là tồn khoản, sau đó lánh mặt. Một chủ xưởng đến ngày lãnh tiền, mới vỡ lẽ là chi phiếu không tiền bảo chứng, chạy đi tìm tôi mà đòi, cùng truy tố tôi trước pháp luật. Cảnh sát lùng kiếm tôi khắp nơi, sau bắt được tôi ở nhà một người bạn, đưa tôi ra toà. Nhân vì tôi giấu của ở nhà một cô bạn gái nên sau khi mãn hạn tù về vẫn ung dung hưởng khoái lạc. Nhưng các chủ nợ thống hận, chửi bới tôi "thằng hôi thối, điếm đàng, vô lương tâm". Trước đây sáu năm, lục phủ ngũ tạng hư hại, tôi ngã bệnh chết, bị quỉ đầu trâu mặt ngựa áp giải tới Minh Phủ Đệ Nhị Điện, Sở Giang Vương chửi tôi gạt người, giựt tiền, làm tiền cách bất lương không chính đáng, xử đày tôi tại Ngục Bùn Phân Nước tiểu. Mãn hạn lại chuyển tôi tới Đệ Tứ Điện, Ngũ Quan Vương nói là tôi biên chi phiếu giả, hai bàn tay là đầu mối của mọi tội hại nhiều người, phán đày tôi tại Ngục Nước Sôi Luộc Tay 10 năm. Người vợ nhỏ sống hoang phí của cải cũng bị xử phạt và đày ở nơi khác. Minh Vương còn  cáo buộc toi, sau khi chịu hết các tội xong, chuyển giao qua ngục chuyển kiếp sẽ tiếp tục bị luân hồi như sau: Kiếp thứ nhứt làm người, thân thể tật nguyền nhưng vì có tài về kỹ nghệ, bị chủ nợ trước thu dụng để làm giàu cho họ, bản thân chỉ được cho chút ít sống qua ngày, còn bao nhiêu đều phải để trả nợ cho kiếp trước. Kiếp thứ hai đầu thai làm con một người giàu có thiếu lương tâm, ra đời thân thể yếu ớt bệnh tật, tán gia bại sản vì chữa bệnh, tuy sống trong nhà giàu, hàng ngày phải uống thuốc vì người thầy thuốc đó là chủ nợ kiếp trước đàu thai lại kiếp này để đòi tiền đã mất, đúng là "thầy thuốc quả báo". Đó là trường hợp quả báo kẻ làm giàu mà bất nhận, gian lận để cướp đọat tiền của người thì phải trả nợ bằng cách uống thuốc, nhân quả báo ứng nhất nhất rành rành. Người đời kiếm sống bằng thương mãi phải luôn luôn giữ đoạ đức, có tiền bằng cách vô lương tâm, ăn không qua kiếp thứ hai, như tôi đây thì dầu có hối hận cũng không còn kịp nữa.

Ngục Quan:  Quân súc sanh, kinh doanh bất chính, kim loại cuối cùng biến thành đất, gian tham tiền bạc của người, kiếp sau vốn lại sạch trơn, liên luỵ con cháu mang tiếng xấu không bao giờ dứt, bao giờ mở mắt được với đời? Hồi nãy tội hồn này khai toàn sự thực, nhân quả báo ứng một mảy lông không sơ sót, y theo sự giám sát của Minh Ty, mấy người chủ nợ kiếp trước đều ân đức, kiếp sau đầu thai đồi lại được số tiền đã mất. Người đời nhân quả ràng buộc nhau thật là vi diệu, chẳng khác nào nhện giăng lưới, nếu có liên quan thì khó mà thoát khỏi lưới báo ứng. Người đời nên nhìn những gương trước, không nên giữ tâm bất lương, làm việc hại người lợi mình mà tạo ra nghiệp chướng, không lạ gì người đời gặp nhiều nghiệp quả trói buộc ngăn trở mà than cho kiếp nhân sinh trầm luân khổ ải.

Tế Phật:  Vì thời giờ trễ, ta thấy phỏng vấn hai tội hồn này cũng đủ rồi.

Dương Sinh:  Thưa phải, xin hỏi thêm Ngục Quan, hiện nay dương gian có nhiều vụ cướp của giết người, có kẻ bị xử cực hình, sau khi chết không biết giam ở đâu?

Ngục Quan:  Coi tội hồn bị xử cực hình ở đâu, có ngục chuyên xử trị trọng hình, bữa khác xin dẫn đi coi.

Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã tận tình chỉ bảo, chúng tôi sắp sửa trở về, kính chào tạm biệt.

Tế Phật:  Thôi mình ra ngoài, lên toà sen mau, sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin thầy khởi hành.

Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI LĂM

 DẠO ĐỊA NGỤC ĐÂM HỌNG

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 6 tháng 2 năm Đinh Tỵ (1977)

 

Thơ:

Diên mạt vô già kích lãng dương

Thương nhân lan thiệt thiếu khai trương

Hoa ngôn loạn phóng chung khô tạ

Xảo ngữ nan sanh nhất nhật hương.

Dịch:

Nước miếng dâng trào sóng đại dương

Hai người múa lưỡi cốt khoa trương

Lời hoa nở loạn rồi khô rụng

Nói xạo khó bền một buổi hương.



Tế Phật:  Đời người đầy những hỉ, nộ, ái, lạc cùng buồn vui tân hợp, do đó tu đạo rồi mà nói cũng không phải dễ. Nên giữ lấy chân tâm tự tại, phải có dịp công phu, không phải chỉ miệng nói suông, mà phải có đức hạnh thành thực lập làm nền tảng cho đạo, nếu không vậy dù có giảng giải cách nào đi nữa thì cũng giống như hoa trôi nước chảy không gây nổi lòng tin cùng động lực. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Bạch thầy, tai sao thầy lại thở dài không vui.

Tế Phật:  Nhân tâm bất đồng, ngôn ngữ đạo nói ra cũng chẳng  giống nhau. Người cho mai là đắng, người lại cho là ngọt, kẻ nói ngọt, kẻ nói đắng, người lại cho là ngọt, kẻ nói ngọt, kẻ nói đắng, đem chuyện đại đạo viên thông ra nói một cách mơ hồ, khiến người ta bấn loạn, chẳng hiểu phải như thế nào mới hay được.

Dương Sinh:  A ha! Người tu đạo nên rõ một điều là cần giữ cái tâm tròn đầy, cho dù ngoại cảnh đảo điên, mình vẫn an nhiên tự tại.

Tế Phật:  Con cũng khá thông minh, ta nghĩ sai một chút là rơi ngay vào mê hồn trận, bây giờ nghĩ lại thấy đại đạo quang minh. Thôi chớ nói nhiều, mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Tuân lệnh.

Tế Phật:  Đã tới nơi, xuống đài sen tham quan.

Dương Sinh:  Phía trước Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đang tới kìa . Tôi là môn sinh của Quan Ân Chủ ở Thánh Hiền Đường, đêm nay đến quí ngục tham quan, xin được chỉ giáo.

Ngục Quan:  Xin hai vị chớ quá lễ phép, bản ngục là Ngục  Đâm Họng trực thuộc sự cai quản của Đệ Tứ Điện, nhân tiếp được sắc lệnh của Minh Vương, biết Tế Công Hoạt Phật cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường bữa nay sẽ thân hành tới bản ngục tham quan, có điều chi thất lễ, xin lượng thứ cho.

Tế Phật:  Xin Ngục Quan chớ khiêm tốn, thầy trò chúng tôi phụng mệnh dạo thăm địa ngục để viết sách, bữa nay tới quí ngục là cốt mong Ngục Quan cùng Tướng Quân giúp đỡ Dương Thiện Sinh thấu tỏ sự tình.

Ngục Quan:  Xin tuân lệnh, mời hai vị theo tôi vào ngục để thấy rõ những hình phạt của các tội hồn.

Dương Sinh:  Trên cửa đề Ngục Đâm Họng khiến tôi cảm thấy khổ đau không nói nổi.

Ngục Quan:  Hãy theo tôi vào trong, chớ kéo dài thời giờ.

Dương Sinh:  Quả không sai, trong ngục tiếng than khóc chấn động điếc cả lỗ tai, âm binh dùng dùi nhọn hung hãn xông tới đâm thẳng vào miệng tội hồn đang bị trối ở một cây cột, giống như muốn đâm cho chết, tội hồn rống lên thê thảm, chẳng khác nào cảnh đồ tể thọc huyết heo. Không rõ tội hồn đã phạm phải lỗi gì mà phải chịu hình phạt đau đớn mức này?

Ngục Quan:  Tội hồn hãy thuật lại tất cả những hành vi ác đức lúc còn sống cho Dương Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở dương gian rõ.

Tội Hồn:  Miệng tôi đau đớn chịu không nổi, vả lại trước đây tôi đã thâụt rõ với Diêm Vương rồi, tại sao bay giờ còn bắt tôi thuật nữa?

Tế Phật:  Bần tăng tới đây là muốn cùng tội hồn hoá duyên, tại sao tội hồn không chịu thuật lại những hành vi lúc còn sống?

Ngục Quan:  Đây là Phật Sông Tế Công, người phụng chỉ dạo âm phủ viết sách, nếu như mi không chịu thuật lại tức là mi phạm tội nghịch chỉ, mi chịu đựng nổi Ngục A Tỳ hả Mi muốn tới đó phải không?

Tội Hồn:  Bởi vì hòa thượng là Phật Sống tế Công, lúc còn tại thế tôi đã từng nghe đại danh ngài, thật dáng chết, xin Phật Sống tha thứ cho tôi, sau đây tôi xin thuật lại ác nghiệp lúc còn tại thế: Lúc tôi còn ở dương gian, vì có giọng ca thiên phú, có biệt tài hát xướng nên tôi thường tới các nhà hàng, các hí viện trình diễn, cũng từng được các nhà thuốc mời đến hát để quảng cáo cho các việc thương mãi, kinh doanh của họ. Trong giới sinh hoạt ca hát, để chìu theo thị hiếu thấp hèn của khán  thính giả, tôi thường trình bày các bài hát dâm ô do chính tôi sáng tác, hoặc phụ diễn các động tác khích dục, khán giả ở dưới vỗ tay haon nghênh rầm rộ. Sau khi chết bị Diêm Vương xử tội, cho rằng tôi cả đời không hát một bài ca ái quốc, một bài ca làm phấn chấn lòng người để giáo dục tâm tính nhân loại, mà toàn là các bài ca làm đồi phong  bại tục, hạ cấp nghe không lọt lỗ tai, có hại cho xã hội cùng phong tục, cho nên đã xử đày tôi 10 năm tại Ngục Đâm Họng. Hàng ngày bị xử dùi sắt đâm vào miệng, thiệt là có miệng mà không nói được. Lúc tại thế sống truỵ lạc, còn thêm bao tội khác, sau khi mãn hạn đày ở đây xong, còn phải bị đày tiếp ở ngục khác, theo như lời Ngục Quan đã cho tôi biết như vậy. Bây giờ nghĩ lại hối hận thì đã trễ rồi. Hy vọng các ca sĩ tại thế gian chớt hát các bài dâm ô mà chỉ nên hát các bài có ý nghĩa. Nếu khôhg sau khi chết miệng lưỡi sẽ toàn hưởng những bài có hương vị đắng cay, đau khổ.

Ngục Quan:  Nhắn nhủ các ca sĩ ở thế gian nên hát những bài ca phấn chấn nhân tâm, chớ hát những bài tình tự sướt mượt làm mềm lòng thanh niên nam nữ, mà phải hát những bài lành mạnh để cho thanh niên phấn khởi tinh thần. Nêu không sẽ tạo thành khẩu nghiệp, khi chết sẽ bị đày xuống địa ngục. Kêu thêm tội hồn thứ hai ra đây để nó thuật lại tất cả những hành vi phạm pháp lúc còn tại thế cho Dương Sinh nghe.

Tội Hồn:  Miệng tôi đau đớn lắm, hãy còn đang chảy máu. Nghĩ lại lúc còn sống, vì cá tính ưa hướng ngoại, sau khi lấy chồng, thường cùng chồng gây lộn, mở miệng là chửi trời trách đất, hay gây lộn với phụ nữ hàng xóm. Thường thường tôi hay đặt điều nói xấu kẻ khác, làm cho gia đình họ bất hoà. Có một người láng giềng mà tôi thường hay gây lộn, để báo thù tôi bèn đặt điều là "vợ của hắn ngoại tình với kẻ khác bị tôi bắt gặp". Một đồn mười, mười đồn trăm, gây phong ba cho gia đình người ta. Tôi cũng thường phá nhân duyên của kẻ khác, ngoài ra tôi thường nói có thành không, không thành có quá nhiều. Sau khi chết Diêm Vương phán 8 năm ở Ngục Đâm Họng. Ngoài ra còn các tội khác, tôi không dám khai nhiều hơn nữa.

Ngục Quan:  Phải lắm, cái miệng xấu xa của mi đã tạo nên nghiệp chướng quá nhiều.

Tế Phật:  Thời giờ ngắn ngủi, mình phải sửa soạn trở lại Hiền Đường, Dương Sinh còn điều chi thắc mắc nữa không?

Dương Sinh:  Xin được phỏng vấn thêm một tội hồn nữa về hành vi phạm pháp lúc còn sinh tiền.

Ngục Quan:  Mau khai rõ những tội mà mi đã phạm khi còn sống cho Dương Sinh nghe.

Tội Hồn:  Lúc còn ở tại thế gian, vì cha tôi biết làm thuốc, biết dùng dược thảo chữa bệnh cho người. Tôi thường xem cha tôi bốc thuốc cho bệnh nhân, do đó tôi cũng biết được chút đỉnh về thuốc men. Sau khi cha tôi mất, các bệnh nhân tới xin điều trị, tôi bèn nói: "những môn thuốc gia truyền cha tôi đã truyền hết cho tôi, bất cứ căn bệnh khó tới mức nào tôi cũng điều trị hết, nhưng có điều các loại thuốc đó đều lấy ở trên núi cao, khó khăn lắm lắm bởi toàn là kỳ trân dược thảo". Người bệnh nào cũng tin là thật, tôi bèn lên giá bán mắc. Trong đó cũng có kẻ tôi trị hết bệnh, cũng có kẻ tiền mất tật mang, bởi thuốc không công hiệu. Có kẻ hỏi tôi về bí quyết môn thuốc gia truyền, tôi đều từ chối chẳng hề tiết lộ, chỉ kẻ nào  trả thù lao tôi mới dạy cho. Cả đời tôi kiếm được không biết bao nhiêu là tiền. Sau khi chết ngờ đâu Diêm Vương xử đày tôi tại ngục này để chịu tội, giờ hối hận thì đã trễ rồi.

Ngục Quan:  Mi thật khéo sử dụng ba tấc lưỡi, hễ mở miệng là nào như "bí mật gia truyền". Mi chẳng hiểu  "bí mật gia truyền" là gì hết. Tuy vậy mi cũng có công giúp đời, chỉ vì đòi giá quá cao làm mất lương tâm của nghề thầy thuốc cho nên mới xử tội mi. Phàm người đời nếu ai còn giữ được "bí mật gia truyền" đều phải công khai tuyên bố để cứu đời, không được giấu diếm làm của riêng để kiếm tiền. Cũng không được nói dối thuốc xấu là thuốc tốt, nếu không vậy thì miệng lưỡi tạo thành khẩu nghiệp phải đày xuống Ngục Đâm Họng này vậy.

Tế Phật:  Thời giờ đã hết rồi, Dương Sinh sửa soạn trở lại Hiền Đường. Đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân. Chúng tôi xin cáo từ.

Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan đã chỉ giáo kỹ càng cùng tiếp đãi nồng hậu.

Ngục Quan:  Thân tiễn nhị vị, nếu như sau này quí vị còn có điều gì muốn tỏ tường thêm, xin cứ tự tiện ghé thăm.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng mời ân sư khởi hành.

Tế Phật:  Phàm kẻ ưa nói dóc cùng đặt điều nói sau lưng kẻ khác, đàn bà tính tình không ôn tồn hoà nhã, phá hoại hôn nhân, hạnh phúc gia đình người ta, hỗn láo cả với các bậc trượng thượng đều phải sửa đổi tính tình, nếu không sau khi chết sẽ bị đày xuống Ngục Đâm Họng. Do đó nếu biết hối lỗi, tai hoạ sẽ biến đi, phúc lộc sẽ tới. Đã tới Thánh Hiền Đường. Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI SÁU

DẠO ĐỊA NGỤC CẮT GÂN CHẶT XƯƠNG

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 16 tháng 2 năm Đinh Tỵ (1977)

 

Thơ:

Đại khai lợi thị hảo kinh doanh

Đồng tẩu vô khi bách nghiệp thành

Đổ thủ trịch khai thiên lý tuyệt

Hoạnh tài thả mạn luận thâu doanh.

Dịch:

Ham lời mở chợ để kinh doanh

Già trẻ tham gia bách nghệ thành

Tay lật quân bài thiên lý hết

Tham tiền khoan nói chuyện công danh.



Tế Phật:  Bữa nay đã tới giờ dạo địa ngục, Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Tuân lệnh, con đã sẵn sàng, mời thầy khởi hành.

Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh:  Trước mắt là Ngục Cắt Gân Chặt Xương, trên cửa ngục có viết rõ. Ngục  Quan cùng Tướng Quân cũng ra trước cửa nghinh tiếp chúng ta. Xion cúi đầu ra mắt Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân. Đệ tử là Dương Sinh theo thầy Phật Sống Tế Công đến quý ngục phỏng vấn. Mong được giúp đỡ nhiều.

Tế Phật:  Hôm nay ta phụng chỉ dẫn Dương Sinh tới quí ngục tham quan để viết sách. Hiện thời thế đạo đảo điên, chỉ ca tụng vật chất mà không tu dưỡng tinh thần, tham sân lợi lộc không chừa một thủ đoạn nào, chỉ cốt sao có được nhiều tiền mà thôi. Vậy thì cái lương tâm Trời ban thế nhân để đâu? Cho nên chỉ toàn thấy nói " Lương tâm không bằng tiền" thật đáng buồn! Nhân Thánh Hiền Đường ở Đài Trung thuộc Nam Thiên Bộ Châu phụng chỉ phát huy đạo giáo để kéo lại lòng người đang sa ngã qua việc viết sách để khuyên đời, sự nghiệp ở trần gian thật là chói sáng. Bởi vậy Ngọc Đế đã ban thưởng cùng đặc biệt ban sắc lệnh viết sách Địa Ngục Du Ký, cho nên Dương Sinh được ta hướng dẫn dạo thăm âm phủ rồi đem tình hình ở các ngục viết vào sách để người đời hiểu rõ. Bữa nay tới quí ngục là mong được chỉ giáo cặn kẻ cho.

Ngục Quan:  Tế Phật nói đúng lắm. Hai vị chịu tân khổ để thi hành lệnh việt sách, chúng tôi cũng tiếp nhận được điện văn cho biết trước, mọi việc đều rõ ràng. Kính mời hai vị theo tôi vào trong tham quan.

Dương Sinh:  Bọn quỉ tốt tàn nhẫn lắm. Chúng dùng dao bén chặt đứt hết tay tội phạm, khiến ai nấy đều la hét thảm khóc, nhưng vì thân thể bị trói chặc vào cột hình chữ thập, chẳng còn cách nào thoát khỏi.

Ngục Quan:  Bản ngục là Ngục Cắt Gân Chặt Xương, quỉ binh dùng dao sắt cắt đứt hết gân tay của tội hồn, cùng lóc thịt quăng cho chó sắt ăn, cuối cùng mới chặt đứt lìa xương tay, kẻ thụ hình cực kỳ thống khổ.

Dương Sinh:  Tôi thấy các tội hồn bị hình phạt đều hôn mê bất tỉnh, phía bên kia có nhiều chó đen đang thản nhiên ngồi nhai những cánh tay của tội nhân. Ở dương gian chó chỉ nằm dưới gầm bàn, gặm xương cá, gà, heo v.v...do chủ liệng cho, còn chó mà ăn thịt người để sống thì chưa hề thấy, xin hỏi Ngục Quan mấy con chó đen kia từ đâu tới vậy?

Ngục Quan:  Chó đó gọi là"chó sắt", ngục nào ở âm phủ cũng có, chuyên ăn thịt người để sống, vì nó không có nhân tính nên gọi là "chó sắt". Nếu như chó ở dương gian tính linh thật sáng suốt, biết giữ nhà cửa và trung thành với chủ. Hiện tại người đời còn nuôi các loại chó quý cực kỳ khôn ngoan, sống gần như người, thậm chí còn được ngủ chung cả với chủ. Nhưng với chó ở địa ngục thì khác nhau xa. Để trừng phạt hạng người không còn nhân tính, mê muội tới mức mất hết thiên tính, vì vậy mà âm phủ mới phải nuôi loại chó sắt để nó ăn thịt người. Đó là lẽ báo ứng, cho nên nói "lòng lang dạ chó" tức là chỉ loại này vậy.

Ngục Quan nói rất đúng, người đã không có lòng trung nghĩa thì không thể so với chó được. Nhìn mấy tội hồn này thấy họ phải chịu những hình phạt thảm thương quá, không rõ đã phạm phải tội gì?

Tế Phật:  Để ta dùng quạt bồ quạt cho tội hồn tỉnh lại, kể rõ lại các tội đã phạm, hãy nhìn ta hoá phép.

Dương Sinh:  Quả nhiên thấy mọi tội hồn tỉnh táo, khôi phục lại thân thể.

Ngục Quan:  Tôi tạm thả ba tội hồn để nó cung khai cùng Dương SInh hầu viết vào Địa Ngục Du Ký. Ra lệnh cho tội hồn này mau khai hết tất cả tội ddã phạm lúc còn tại thế khiến sau khi chết phải đày ở đây.

Tội Hồn:  Tôi xin khai, xin khai. Đau quá đi thôi! Con cháu tôi ở dương gian  đâu có biết tôi ở âm phủ đau khổ tới mức này, mà nghĩ người ta sau khi chết đi là hết. Lúc tôi còn sống làm nghề bán trà, vì ham nhiều lời bèn nghĩ tới cách cân gian. Như một cân trà khô là mười sáu lượng, mà tôi chỉ cân có mười bốn lượng. Suốt một đời buôn gian cân thiếu, mặc dầu thương nghe người ta nói buôn bán cần phải thực thà, nếu  ăn gian nửa cân ở kiếp này thì kiếp sau phải trả tám lượng. Nhưng tôi không thàm nghe, chẳng giữ chút lương tâm. nào ngờ sau khi chết đi, hồn tới âm phủ, đến trước đài gương soi ác nghiệp, tất cả các tội lỗi xấu xa lúc sống hiện rõ ra, bị Tứ Điện Minh Vương phán đày mười năm ở Ngục Cắt Gân Chặt Xương này. Hằng ngày bị đem ra cắt gân lóc thịt, quỉ sứ lóc tay tôi như người đời lóc cá. Hối hận thì đã muộn, hỡi những kẻ buôn bán tại thế gian phải hết sức lương thiện, chớ tham lợi nhỏ, cân lường gian lận, hình phạt ở địa ngục khắc khe lắm, chẳng thể tránh khỏi đâu. Minh Vương ghét các người này lắm, cho nên Ngài coi chừng rất nghiêm, quỉ sứ lại quá nhẫn tâm. Bây giờ hối hận thì đã muộn.

Ngục Quan:  Ai biểu mi cân lường gian lận? Hiện tại tới địa ngục bị quỉ sứ sửa trị hai tay để hết dám còn làm bậy. Lệnh cho tội hồn thứ hai mau tới khai rõ những hành vi bất chính lúc còn tại thế để Dương Thiện Sinh ở Thánh Hiền Đường trên dương thế thấu rõ.

Tội Hồn:  Tuân mệnh. Lúc còn sống, vì gia đình nghèo nên không được học hành, bèn làm nghề mua bán đồ phế thải để sinh sống. Hằng ngày đạp chiếc xe ba bánh đi khắp nơi mua đồ phế thải như giấy lộn, sắt vụn, áo quần, giày dép rách v.v... Vì nghe một người bạn đồng nghiệp nói nếu mua các  loại đồng sắt phế thải mà cân đúng thì không lợi bao nhiêu, phải cân gian thì mới lợi nhiều. Tôi ben làm theo, người bán đồ đứng ngoài nhìn vẫn thấy tôi cân đúng, kỳ thực bị tôi lừa mà không hay. Những món đồ đáng lý cân nặng cả mười cân, tôi chỉ cân còn có bảy, người bán đồ cũ chẳng hay vì bán được là tốt rồi. Suốt đời tôi cân gian, thâu lợi không biết bao nhiêu mà kể. Sau khi chết Diêm Vương giận quá, mắng tôi là mua đồ cũ gian lận, làm  tổn hại âm đức. Hiện bị đày ở ngục này mười lăm năm. Hằng ngày bị đem ra hành tội, bị âm binh khinh khi, chửi mắng, khổ sở nói không nổi. Kính mong Thiện Sinh thương tôi mà xin giảm hình phạt giùm để tôi sớm thoát khổ. lạy ta, lạy tạ.

Dương Sinh:  Thưa ân sư! Tội hồn này đã khai rất thành thực, nghĩ tình cảnh thật đáng thương, áo quần rách rưới, con muốn cứu giúp họ một đôi phần.

Tế Phật:  Chúng ta phụng chỉ viết sách, không nên can thiệp vào chuyện của người khác, để Ngục Quan xử lý tiện hơn.

Ngục Quan:  Lúc sống tay không trong sạch, bây giờ nên để cho quỉ sứ lóc da xẻo thịt, chặt xương, cắt gân. Đó không phải là tính cẩn thận từng cân sao? Nếu gân thịt còn đâu đớn thì không phải là nam nhi. Người con trai có tội thì phải can đảm chịu đựng, chớ có van lơn. kêu tội hồn thứ ba tới, mau đem chuyện thất đức lúc còn tại thế khai ra cho Thiện Sinh nghe để còn viết vào sách Địa Ngục Du Ký hầu khuyên răn cá hạng cờ bạc hư hỏng ở thế gian.

Tội Hồn:  Lúc còn tại thế, chồng tôi là một công chức hạng trung, khi chồng đi làm, con đi học, thấy tôi ở nhà một mình rảnh rang, mấy bà ở lối xóm rủ tôi đi đánh mạt chược. Lúc đầu tôi không biết, họ liền dạy tôi, lần lần không những tôi biết đánh đủ các loại bài. Tuy thua mạt chược chẳng đáng là bao, nhưng từ khi say mê đỏ đen, tôi đã bỏ bê chồng con nhà cửa, lang thang khắp các sòng bài. Chồng tôi năn nỉ khuyên can, tôi bỏ ngoài tai, nên gia đình thường có chuyện xào xáo. Bốn năm trước nhân bị bệnh tim mà chết. Khi đến địa ngục thì Diêm Vương xử phạt đày ở ngục này, còn nửa năm nữa mới mãn hạn. Khuyên các bạn phụ nữ ở thế gian nên giữ âm đức, chăm lo gia đình, không nên bắt chước tôi để sau khi chết tránh khỏi cực hình hai tay bị chặt cụt, thân thể chẳng còn giống như khi sống.

Ngục Quan:  Đàn bà là chủ trong gia đình mà quên đi trách nhiệm tề gia nội trợ, ra ngoài chơi bời cờ bạc, làm bại ngoại phong tục xã hội, nhưng người này lúc còn sống không gian xảo cùng lấy nghề cờ bạc để sinh nhai nên Diêm Vương đã giảm khinh .

Dương Sinh:  Xin hỏi Ngục Quan, mấy người sinh sống bằng nghề giang hồ cờ bạc, chuyên môn cờ gian bạc lận, không rõ bị trừng phạt ở đâu.

Ngục Quan:  Những tội hồn đó không thuộc quyền bản ngục mà do Đệ Thất Điện Thái Sơn Vương nghiêm trị. Khuyên thế gian, phàm đã phạm tội trên, nên mau sửa lỗi cùng in tặng quyển Địa Ngục Du Ký để khuyên đời thì tội ấy có thể giải trừ, sau khi chết khỏi đến địa ngục này thụ hình.

Tế Phật:  Thời giờ đãhết, chúng ta sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan đã chỉ giáo, chúng tôi phải về lại dương gian, xin giã từ.

Ngục Quan:  Miễn lễ, xin kính tiễn nhị vị.

Tế Phật:  Dương Sinh, mau ra khỏi ngục, sửa soạn lên đài sen.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin ân sư trở lại Hiền Đường.

Tế Phật:  Đã tới Hiền Đường, Dương SInh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI BẢY

 DẠO ĐỊA NGỤC ONG ĐỘC

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 6 tháng 3 năm Đinh Tỵ (1977)

 

Thơ:

Quy y Thánh Phật biểu đơn thành

Phóng hạ đồ đao quỉ diệc kinh

Tứ chính tam thanh nghi cố thủ

Thanh vân hữu lộ đạt thiên kinh.

Dịch:

Noi gương Thánh Phật tỏ lòng thành

Đồ tể xuống đao quỉ cũng kinh

Pháp định pháp thiền nên cố giữ

Kinh đô tiên giới cưỡi mây xanh.



Tế Phật:  Tu tới Thánh Tiên không phải dễ, muốn làm Thánh Hiền giữ lòng càng khó hơn. Trên đời người ta lập nhiều đạo, nhà thờ, chùa miếu bảng hiệu trưng lên thật là rực rỡ, nói kinh, luận lẽ đạo, tham thiền chứng ngộ, là chốn để độ chúng sinh, đó là thiên đường ở trân gian. Gần đây có rất nhiều kẻ lạm dụng danh nghĩa thần tiên, làm việc ám muội thất nhân tổn đức, buôn thần bán thánh, sơn phết tượng gỗ, thi hành đủ mọi mánh khoé gian manh, gạt gẫm kẻ ngu để kiếm tiền, làm hoen ố thánh thần, lỗi lầm kể không xiết. Tội khi thế hại nhân không nhỏ, luật pháp âm phủ nghiêm ngặt, tuyệt nhiên không khoan thứ. Hôm nay ta dẫn Dương Sinh xuống đại ngục tham quan, để làm tấm gương kim cổ cho thế nhân soi. Dương Sinh chuẩn bị dạo âm ti, mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Tuân lệnh, con đã sẵn sàng rồi, không biết bữa nay đi đâu?

Tế Phật:  Địa Ngục Ong Độc, mau nhắm mắt lại chuẩn bị lên đường.

Dương Sinh:  Con đã nhắm mắt rồi, xin thầy khởi hành.

Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh:  A! Địa Ngục Ong Độc đã hiện ra trước mắt. Quỉ sứ áp giải nhiều tội hồn vào trong ngục, dọc đường bị gậy đập, roi quất quá tàn nhẫn, khóc la thảm thiết, nghe thật rụng rời, không biết họ phạm vào tội gì?

Tế Phật:  Bọn này lúc còn tại thế nương tựa vào thần thánh làm kế sinh nhai. Lúc sống ăn nhiều cho nên sau khi chết bị âm ti quản thúc, muốn biết rõ hơn phải vào hẳn bên trong ngục quan sát. Ngục Quan cùng Tướng Quân đã chờ sẵn để tiếp đón chúng ta, mau đến ra mắt.

Dương Sinh:  Đệ tử là Dương Sinh xin ra mắt Ngục Quan và chư vị Tướng Quân. Thưa tôi là môn sinh của Thánh Hiền Đường trên dương thế, phụng mệnh cùng Tế Phật dạo thăm âm phủ để viết sách. Hôm nay đến quí ngục, mong được giúp đỡ nhiều.

Ngục Quan:  Xin chớ khách sáo, bản ngục là Địa Ngục Ong Độc vừa mới thiết lập, nằm dưới quyền cai quản của Đệ Tứ Điện. Gần đây các tội phạm ngày càng gia tăng nên U Minh Giáo Chủ đặc biệt cho thiết lập thêm ngục này để quản trị cùng cải huấn tội phạm, xin mời hai vị vào trong xem xét cho tường tận.

Dương Sinh:  Đa tạ. Ái chà! Bạch thầy con không dám vô nữa, bên trong đầy ông mật, con nào con nấy lớn bằng ngón tay cái, đen  thui, y như "ong đầu cọp" bay vào ngục chích các tội phạm, người nào cũng la hét, muón trón mà không được, ngã la liệt ở góc tường. Có vài con bay về hướng mình, sợ bị nó chích quá, kiếm chỗ trốn là hơn. Ong đầu cọp độc lắm, chích trúng là chết.

Tế Phật:  làm gì mà sợ quá vậy! Mấy con ong độc này đều có tính linh, không phải cứ gặp người là chích đâu. Vì thân thể tội hồn vốn có cái khí bất chính, cho nên nó thích mà lại gần. Như nơi sạch sẽ, ruồi muỗi tránh xa. Vật hôi thối ruồi muỗi bay theo. Loài ong độc này bay ra là có ý nghinh đón chúng ta.

Dương Sinh:  Kỳ lạ quá! Pháo nổ mà không làm hại người vì đó là pháo lễ nghinh đón quí khách.

Ngục Quan:  Mời nhị vị tới trước tham quan. Dương Sinh chớ có sợ, nếu ong gặp ai cũng chích thì chúng tôi đã chạy trốn mất tiêu rồi. Ong độc này là thần vật, chuyên môn chích những kẻ nào ở trên đời giả dối, mượn danh nghĩa, cùng đội lốt thần thánh kiếm tiền. Giờ đây chúng muón chạy trốn mà chẳng được, và cũng bởi tội hồn có ý muốn trốn lánh cho nên càng bị bầy ong  bám sát. Dương Sinh coi thân thể tội hồn bị ong chích sưng u từng cục, nhất là trên đầu, sưng vếu cả lên. Bị nọc dộc hành hạ cơ thể đâu nhức khóc như mưa, kẻ nào kẻ đó bưng đầu chạy như vịt.

Dương Sinh:  Hình phạt tàn nhẫn quá, căn ngục nhỏ hẹp, tội hồn bị đám ong rượt, muốn chạy trốn mà không nơi, không cửa, cũng chẳng biết kêu ai. Xin hỏi Ngục Quan, các tội hồn này phạm phải lỗi gì mà đến nỗi phải đày ải ở đây để chịu hành phạt đau đớn này.

Ngục Quan:  Để viết vào Địa Ngục Du Ký tôi mở cửa nhà giam, bảo vài tội hồn kể lại những hành vi ác độc của họ lúc còn sống hầu cảnh cáo người đời.

Tế Phật:  Hay lắm. Bây giờ các ngục của âm ti đều biết thầy trò mình phụng chỉ dạo âm phủ để viết sách Địa Ngục Du Ký, tìm kiếm bằng cớ để cảnh cáo thế gian, xin Ngục Quan cho tôi biết rành rẽ tội trạng của các can phạm.

Ngục Quan:  Đó là nhiệm vụ của viên chức các ty sở tại. Để tôi tạm thả hai tội hồn ra để nó khai những hành vi ác độc mà nó đã làm khi còn sống để Dương Thiện Sinh rõ, không thể dài lời.

Dương Sinh:  Xin hỏi tội hồn, lúc còn sống người đã phạm phải tội gì? Tại sao bị đày ở ngục này để chịu cực hình?

Tội Hồn:  Nói ra càng them xấu hổ, còn mặt mũi nào nhìn thấy người khác. Tôi là một đạo hữu của Thánh Hiền Đường thuộc Nam Bộ Đài Loan. Nhân học đạo đã lâu năm, sau được bầu làm chức Phó Chủ Hiền Đường, có một lần muốn mở mang mối đạo nên đã viết sách, in tặng các nơi tin điều lành, tôi gắng sức chịu cực khổ, các nơi hâm mộ cũng muốn in ra thật nhiều để giúp người. Vì nhờ tai ăn nói của tôi, chỉ hơn hai tháng mà thâu được trên ba chục ngàn đồng. Thời gian đó tôi lại thiếu nợ mọt người, bị họ hối thúc tôi không biết tính sao. Nhân có sẵn trên ba chục ngàn đồng, bèn lấy ra một phần trả nợ. Cuối cùng chỉ đưa cho Đường Chủ chẵn hai chục  bốn trăm năm mươi sáu đồng. Trả xong nợ còn lại bao nhiêu tôi cất đi để tiêu riêng, vì nghĩ rằng chẳng ai biết nổi. Nhưng từ đó về sau sự hối hận giày vò tâm can, luôn luôn có cảm giác bất ổn đối với ân chủ. Mỗi lần ngồi đàn cơ, ân chủ cũng chẳng hề đá động tới việc tham tiền của tôi. cách đay ba năm, toi đau bao tử nặng chẳng bao lâu thì thác, bị Tướng Quân đầu trân mặt ngựa tới áp giải đi. Lúc đó ân chủ mới tới trước mặt tôi thét mắng : "Mi nghĩ điều sai quấy, tới chết không tỉnh ngộ. Lúc còn sóng có những điểm khúc mắt tại sao không nói thẳng cho ta rõ. Tiên Phật giáng xuống thuyết pháp là cốt để khuyên răn người đời hành điều thiện, bỏ điều ác. Toàn bộ chân lý là do cách hành đạo dạy người xử thế. Đã đọc lời dạy dỗ của thánh hiền mà không hành theo lời dạy, giờ đây phỉa gánh tội thì ráng mà chịu." Ngoài ra còn dặn âm binh bẩm lại với Minh Vương để tăng thêm hình phạt. Đến khi tôi tới âm phủ Minh Vương giận lắm, sai áp giải tôi tới Đài Gương Soi Ác Nghiệp để chiếu hiện những hành vi in sách lấy tiền bỏ túi  tiêu riêng, thì không điểm nào không chiếu rõ, khiến tôi run rẩy sợ hãi. Sau giao tới Đệ Tứ Điện để Ngũ Quan Vương phán tội, tôi đã bị kết án tù hai mươi tám năm và giam tại Ngục Ong Độc này, sau tái giao cho Ngũ Điện xử lý. Hàng ngày tại ngục thụ hình ong chích toàn thân đau đớn chịu không nổi, thân thể sưng vù, ong độc hễ thấy tôi là truy kích. Nhà tù hẹp quá làm sao trốn, hối hận lúc còn sống tu học tại Hiền Đường, làm đồ đệ của ân chủ, không tuân thánh huấn, mặc dầu chỉ phạm tội có một lần mà cũng không được ân giảm. Hy vọng các đạo hữu hết sức cẩn thận hành vi và ngôn ngữ, nếu sơ sót mắt trời khó thoát. Như nay tôi hối hận thì đã muộn, thật uổng công ân chủ giao hoá cùng đông đạo dẫn dắt, lòng xấu hổ quá chừng.

Ngục Quan:  Mi vào cửa thánh không thụ thánh giáo, có thể nói là khinh thầy, khinh người, trên vô lễ với ân sư, dưới vô lễ với người xuất tiền in kinh sách. Đối với người đã thực tình phát tâm cúng dường, người ta không sợ sư sãi hoà thượng giả, kẻ bố thí khi đã phát tâm, công đức không thể giảm chỉ kẻ tham tiền lòng xấu phát sinh, tự chuốc lấy tội lớn mà thôi. Phàm đã bước vào cửa thánh một cắc, một xu cũng phải rõ ràng, nếu không sẽ làm ô uế phép đạo trong lành nơi cửa thánh, địa ngục gia tăng hình phạt. Người đời phải thật cẩn thận.

Tế Phật:  Bọn làm bại hoại cửa thánh, tiền bạc không trong sạch, phá hoại danh dự, tội muôn phần đáng chết, hình phạt ở cõi âm sẽ chẳng tha. Đã nói là người đời, tu đạo phải giữ khuôn giáo phép đạo trong lành, sau khi chết mới tránh khỏi sa xuống địa ngục chịu hình phạt đau đơn, khi đó mới hối hận thì đã lỡ rồi. Hôm nay thời giờ đã hết, ngày sau trở lại nữa. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền Đường đa tạ Ngục Quan đã tận tình chỉ bảo?

Dương Sinh:  Cảm tạ Ngục Quan cùng Tướng Quân đã giúp đỡ tìm hiểu  nội tình của quí ngục, vì thời giờ có hạn, xin cáo từ.

Ngục Quan:  Các Tướng Quân hãy sắp hàng tề chỉnh để tiễn đưa quý khách, mong ngày khác lại được tiếp đón quí vị tại bản ngục.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin thầy trở lại Hiền Đường.

Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI TÁM

 DẠO ĐỊA NGỤC ONG ĐỘC LẦN THỨ HAI

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 19 tháng 3 năm Đinh Tỵ (1977)

 

Thơ:

Tiên Sư độ ngã thánh ân trường

Hậu đức tình thâm niệm bất vong

Thế thượng hà đa oai đạo tử

Tu thành thần côn đáo công đường.

Dịch:

Thánh Tiên cứu độ đức ân dày

Nghĩa cả tình sâu niệm tối ngày

Cõi thế có nhiều tên bán đạo

Tu thành thần cướp bị lưu đày.

 

Tế Phật:  Thánh Thần Tiên Phật giáng phàm độ nhân, thâu nhận đồ đệ, giáo hoá để tu theo chân lý chẳng qua là muốn người đời phản bổn hoàn nguyên mà tu thành chánh quả. Bậc thầy Trời ân đức sâu dày không gì sánh nổi, cho nên có thể nói "Nhất nhân vi sư, chung thân vi phụ" (Một ngày làm thầy suốt đời làm cha). Lẽ đương nhiên là phải nghe lời thầy dạy, bắt chước hành vi của thầy nhưng cũng có hạng bất nhân ác đức, đang tâm phản đạo, núp bóng thần thánh, mượn danh Tiên Phật để kiếm tiền. Thần Tiên không tu, mà tu thành thần cướp, Thiên Đường không lên được mà lại bị tống xuống Bộ Công Đường, ác nghiệp đó không nhỏ  vậy. Phàm đã vào  cửa thánh mà phạm thánh qui, âm luật phán tội nặng lắm. Người đời bất luận qui y đạo nào thì nên tuân giữ thánh qui lễ tiết đạo ấy để tránh phạm tội không cứu chuộc được. Bữa nay Dương Sinh sửa soạn dạo âm ti, mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, không biết hôm nay mình đi đâu?

Tế Phật:  Lại đến Địa Ngục Ong Độc coi mấy kẻ phản đạo vong đức bị xử ra sao. Nhắm mắt lại, chúng ta lên đương ... Đã tới nơi, mau xuống đài sen.

Ngục Quan:  Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh trở lại bản ngục để tái tham quan.

Tế Phật:  Hiện tại trên cõi thế có rất nhiều kẻ mượn danh Thần Thánh, khoác áo cà sa tô tượng Bụt để kiếm tiền làm mất vẻ trang nghiêm của Thần Thánh Tiên Phật cùng danh dự của tôn giáo chính thống không ít, cho nên ta đặc biệt trở lại đây lần nữa thâu thập các dữ kiện để khuyên đời.

Ngục Quan:  Phải phải, hai vị theo tôi vào trong, tôi thả vài tội hồn ra, để nó thuật lại những hành vi xấu xa đê tiện của nó lúc còn tại thế cho Dương Sinh nghe.

Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan! Loài ong độc này bay lượn đầy trời, thấy tội hồn bèn sa tới đốt mọi tội hồn đều bị châm, da thịt sưng húp, đầu nặng mắt hoa.

Ngục Quan:  Không chỉ vậy thôi đâu, còn phát nóng lạnh nữa, vì loại ong độc này chứa nhiều nọc độc, tôi kêu vài tội hồn tới để thuật rõ lúc còn sống phạm những tội gì. Mệnh Tướng Quân tạm thả tội hồn ra khỏi ngục.

Tướng Quân:  Tuân lệnh ...Đã áp giải ba tội hồn tới.

Ngục Quan:  Tội hồn hãy nghe đây, vị này là Phật Sống Tế Công còn vị kia là Dương Thiện Sinh thuộc Đài Trung Thánh Hiền Đường, phụng chỉ viết sách Dịa Ngục Du  Ký, tội hồn hãy thuật rõ tội trạng lúc còn sinh tiền để làm tài liệu khuyên răn người đời.

Dương Sinh:  Xin hỏi tại sao người phải tới đây thụ hình?

Tội Hồn:  Tôi thiệt là không phải, lúc còn sống ở dương gian, tôi làm lý trưởng trong làng. Dân chúng muốn lập miếu, tôi thay mặt thâu góp tiền bạc, rồi gian lận của chung, đem tiền thâu được xài riêng. Sau khi chết mới rõ là đã ăn tiền của Trời Phật thì tội tôi quá nặng, cho nên bị phán đày ở ngục này để thụ hình. Ong độc không chút tình thương, châm đốt người quá đau đớn, nhức buốt chịu không nổi, Dương Sinh nhìn tôi đây, toàn thân sưng đỏ. Người đời đối với chuyện thần  minh phải thật rõ ràng, tiền của thần thánh một xu nuốt cũng khó trôi, ong độc chích tôi là do báo ứng. Ngoài ra thì không còn tội nào khác nữa.

Ngục Quan:  Mi làm lý trưởng đáng lẽ phải vì dân chúng mà phục vụ tạo phước cho con cháu, dân chúng địa phương muốn lập miếu là có lòng hoài niệm, ngưỡng mộ cùng kính mến Tiên Thánh, mi lại nhân cơ hội đó làm tiền, tội khó mà tha thứ. Tội hồn thứ hai hãy cung khai rõ những lỗi lầm lúc sinh tiền.

Dương Sinh:  Xin hỏi sư phụ, bà đã xuất gia, tại sao lại không tới chốn thanh tịnh Tây Phương cực lạc mà lại bị đày xuống địa ngục.

Tội Hồn:  A Di Đà Phật! tội quá! Tội quá! Tôi qui y Thế Tôn thuở mười lăm tuổi, chuyên tu Phật pháp, những tưởng tu thành chánh quả, song vì tự mình không kiên trì giữ đạo, bất luận tiền của thiện nam tín nữ bố thí đều lén giấu xài riêng, không hề đem hết ra tu bổ chùa chiền, mua đầu đèn nhang nến. Khi đọc kinh cuầ siêu cho Phật tử, thì chỉ ê a cho có lệ, gặp lúc quyến thuộc của thiện tín qua đời mời tôi tới để tụng kinh vãng sinh thì phải trả tiền, thù lao nhiều ít căn cứ vào số dòng, số trang trong kinh có thể nói là "tiền nào của nấy". Nếu như Phật tử nghèo mà mời tôi tới thì vẻ mặt rầu rĩ không vui, hối thúc tôi năm lần bảy lượt tôi cũng chẳng buồn đi. Còn nếu gặp được nhà giàu, ắt tận lực bài trí đạo tràng để lấy lòng chủ nhân. Chỉ vì lúc còn sống tham tiền tham của, sau khi chết, Thế Tôn đã không tới tiếp, tôi còn bị đày xuóng Địa Ngục Ong Độc thụ hình, thống khổ vô cùng.

Ngục Quan:  Mi đã là Ni tỳ khưu, xuất gia tu đạo, lấy thanh tịnh làm gốc rễ rèn luyện tâm tính, nhưng lòng trần chưa dứt, ham hưởng thụ nên đã nhận tiền thay cho Phật, hành vi đó không hợp với đạo của thế Tôn cho nên phán mi tới đây thụ hình.

Tế Phật:  Quy y Phật môn là cốt bỏ tánh tục mà lập hạnh tánh thanh, mọi người đều mang họ "Thích" trang nghiêm biết bao, y như Phật vậy, nhưng không vượt qua nổi sự khảo nghiệm của hồng trần, chẳng nghĩ gì tới việc từ bi để độ chúng sinh, cái tâm thế tục này khó mà phối hợp được với tâm bồ tát. Phải quiét tam tam tứ tướng cho sạch mới có thể thấy được Thế Tôn. Tam độc, ngũ uẩn không bỏ thì phải luân hồi sáu kiếp. Mong thiên hạ chúng sinh bất luận học đạo, học Phật, nếu như lòng trần chưa dứt thì khó tới được thiên đường. Bữa nay  thời gian đã trễ, hôm khác lại tới hỏi nữa. Dương Sinh sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Đa tạ Ngục Quan cùng Tướng Quân đã tiếp đãi nồng hậu, chúng tôi phải trở lại Hiền Đường, xin tạm biệt chư vị.

Ngục Quan:  Có điều chi thất thố, xin nhị vị bỏ qua cho, mong gặp lại để được góp ý.

Tế Phật:  Mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin ân sư trở lại Hiền Đường.

Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI MƯƠI CHÍN

 DẠO ĐỊA NGỤC ONG ĐỘC LẦN THỨ BA

 Phật Sống Tế Công

Giáng ngày mồng 3 tháng 4 năm Đinh Tỵ (1977)

 

Thơ:

Thần chiêm cứu thế bổn từ tâm

Đạo pháp song tu đức nghiệp thâm

Chỉ điểm mê tân bằng thánh khẩu

Giải nhân hoạ ách kiếp nan xâm.

Dịch:

Cứu đời thần dạy vốn ân cần

Phép đạo chăm tu nghiệp đức nên

Chỉ rõ bến mê bằng miệng thánh

Ngăn ngừa tai hoạ khỏi lan tràn.



Tế Phật:  Thần Thánh giáng cơ cứu thế là vốn có lòng từ tâm thương xót chúng sanh khổ não, nhưng lại bị bọn đạo giả, tiên giả dùng làm phương tiện kiếm tiền, chẳng hề thi hành lẽ đạo, nên bây giờ tội của bọn đó tăng lên một bậc. Thầy tướng tự xưng là "Miệng sắt", đó là những kẻ hút máu người không biết tanh, miệng chúng là miệng hổ lang. Bọn chúng là đám đồ để bất lương đã làm bại hoại danh ngài sư tổ ngành tướng học là Quỷ Cốc tiên sinh. Khi chết bị Diêm Vương phạt trọng hình, sau này còn bị chuyển kiếp, sinh làm chim bay lượn ở núi hoang Quỷ Cốc, há to miệng sắt kêu ríu ra ríu rít nghe điế cả tai. Bữa nay đã tới giờ dạo âm ti, Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh:  Xin tuân lệnh, khí trời nóng quá, còn đường ở địa ngục chẳng rõ có mát mẻ không?

Tế Phật:  Âm khí lạnh lẽo, lông tóc con dựng đứng, mau lên đài sen đừng kéo dài thời giờ.

Dương Sinh:  Thưa vâng, con đã sẵn sàng, xin ân sư khởi hành..

Tế Phật:  Đã đến nơi, mau xuống đài sen.

Ngục Quan:  Hoan nghinh nhị vị trở lại thăm bản ngục thêm lần nữa.

Dương Sinh:  Hôm nay lại đến Địa Ngục Ong Độc, Ngục Quan cùng Tướng Quân đã thân hành ra tiếp chúng ta.

Tế Phật:  Trên đời không thiếu gì kẻ mượn danh nghĩa thần thánh làm bại hoại thánh đức của chư thần, khiến chúng tôi phải hai ba lần đến Đại Địa Ngục Ong Độc kiếm tài liệu để tuyên bố những điều đã thấy ở âm phủ hầu khuyên răn người đời.

Ngục Quan:  Mời hai vị theo tôi vào trong nghỉ ngơi và dung trà.

Dương Sinh:  Bữa nay thời gian eo hẹp, chúng tôi không dám nghỉ ngơi, xin miễn thứ cho.

Ngục Quan:  Vậy cũng được, xin mời Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh vào trong ngục.

Dương Sinh:  Ong độc đầy phòng, lấy người làm tổ, bu kín thân tội hồn, không phải để hút mật mà là để chích nọc độc.

Tế Phật:  Tại thế ham ăn nhiều đồ ngon ngọt, cho nên tới đây phải uống no đồ cây đắng.

Dương Sinh:  Tội hồn thống khổ rên la, kinh hãi trốn chạy nhưng chẳng tìm ra lối thoát.

Tế Phật:  Đúng là "Thiên đường hữu lộ tha bất khứ, địa ngục vô môn ngạnh tiến lai." (Thiên đường có lối sao không tới, địa ngục cửa cài lại cố tìm).

Ngục Quan:  Hiện giờ nơi các miếu ở thế gian, có nhiều người mượn danh nghĩa thần thánh kiếm tiền, xã hội chỉ trích quá nhiều ảnh hưởng không ít đến uy danh của thánh Thần. Chốn Địa Ngục Ong Độc tội hồn ngày càng tăng khiến tôi cảm động thốt ra lời, tôi xin gọi vài tội hồn đại diện tới thuật lại những hành vi thất đức lúc còn sống để viết vào sách Địa Ngục Du Ký.

Dương Sinh:  Ngục Quan đã gia công khó nhọc quá nhiều để giúp đỡ thầy trò tôi hoàn thành nhiệm vụ mà Thần Thánh đã trao cho, quả là chịu ơn quá nhiều.

Ngục Quan:  Đó là bổn phận của tôi, xin đừng khách sáo. Tôi đã sai Tướng Quân dẫn giải hai tội hồn tới và giới thiệu Dương Thiện Sinh là môn đệ của Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trên dương thế, được Phật Sống Tế Công dẫn đi xem xét tình hình ở âm phủ để viết sách khuyên đời, vậy tội hồn hãy mau thuật lại những hành vi sai trái ở dương gian.

Tội Hồn:  Lúc còn sống tôi ngụ tại cung nọ ở Đài Trung làm đồng cốt, giữ chức Trung Đàn Nguyên Soái. Ban đầu thần linh nhập vào xác tôi, mượn thân tôi mà giáng cơ cứu độ chúng sinh, quả  đã cứu chuộc được rất nhiều người, có rất nhiều bệnh bác sĩ chữa không khỏi đều được thần lực của Trung Đàn Nguyên Soái trị dứt. Về sau thấy người tin tưởng ngày càng đông, nhiều lúc Trung Đàn Nguyên Soái không nhập vào tôi, tôi cũng giả làm thần nhảy múa, khiến bệnh nhân càng nặng thêm. Lại thường mượn cơ hội đó mê hoặc thiện tín, nói là họ bị tai họa nghiệp chướng, bị ma quỉ nhập cần phải cúng lễ để giải trừ mới thoát khỏi vận xấu. Kẻ muốn tai qua nạn khỏi, phải đốt nhiều giấy tiền vàng bạc, giá phải trả từ một đến hai ba ngàn đồng không chừng. đó không phải là ý muốn thần thánh. Suốt đời kiếm được không biết bao nhiêu tiền, mua nhà lầu hưởng thụ sung sướng khoái lạc. Sau khi chết bị âm binh áp giải tới Đệ Tứ Điện ở âm phủ, Diêm Vương giận dữ nói "Mi làm đồng cốt ở Trung Đàn Nguyên Soái, lẽ ra phải ráng giữ thần khí cho dồi dào để cứu nhân độ thế, ngược lại mi lại mượn danh Thần Thánh để kiếm tiền, công cứu người còn thua tội kiếm tiền. Tội nặng hơn công, cho nên phán đày ở Địa Ngục Ong Độc để chịu khổ." Hàng ngày ong độc chích đau chịu không nổi. Lúc sóng dao kiếm chém thân cũng không đau bằng bây giờ bị ông đốt, đau nhức thấu tim gan. Hối hận thì đã trễ rồi. Gởi lời nhắn với thế gian là đã làm đồng cốt thì phải giàu lòng cứu nhân độ thế, đừng nửa đường phản bội, mượn việc của Thần mà gạt người lấy tiền lấy bạc, mới mong tránh khỏi đi theo vết nhơ của tôi.

Tế Phật:  Đồng cốt cứu thế, đó là truyền thống của đạo giáo, nguyên là để phù trợ cho thầy thuốc cõi phàm không đủ khả năng, lấy thần y mà trị, thể hiện đức hiếu sinh của Thượng Đế. Hậu thế nếu dựa vào đó để kiếm tiền, bội nghịch ý  hiếu sinh của Trời. Có thể nói đó là lối của người lên đồng. Làm đồng cốt cứu thế nếu sinh hoạt bình thường để tuỳ ý người ta quyên góp thì không có gì lầm lỗi. Nếu như mượn cớ đó để kiếm tiền như lối mua bán "thuốc Thánh" ắt biến thành "thần cướp". Pháp luật dương gian không thuận thì luật pháp ở cõi âm cũng chẳng tha.

Ngục Quan:  Kêu tội hồn thứ hai hướng Dương Thiện Sinh khai rõ ác nghiệp lúc còn tại thế.

Tội Hồn:  Lúc còn sống, tôi là thầy tướng nghiên cứu tướng học, bôn ba giang hồ, thường thiết lập bàn coi tướng ở giữa chợ, chỉ rõ điểm mê của người đời. Có lần, nhơn làm ăn không khá thì gặp một thanh niên nhờ tôi chỉ dạy, tôi thấy y ăn mặc sang trọng như người ngoại quốc ben khua môi múa mỏ đoán bậy là y sắp bị cướp  tới nơi rồi, phải giải cái hạn hung sát đi, còn không tương lai vô  cùng đen tối.Tôi có học được môn bùa chú có thể thay sao hoán tinh. Thanh niên đó tin ngay là thiệt, bèn rớt trúng vào tròng của tôi. Tôi cúng giải hạn xong bèn đòi tiền thù lao là $5.000. Từ đó trở đi tôi thi hành hoài cái "tuyệt chiêu" đó để gạt người ta lấy tiền. Sau khi chết Diêm Vương thét mắng bảo tôi là: học tướng pháp mà thiếu đạo đức, gạt người lấy tiền, phán đày tôi tại Địa Ngục Ong Độc mười hai năm. Tới giờ mới được hơn ba năm, ngày chịu khổ còn nhiều lắm, ong độc không cho mật ngọt mà chỉ cho kim chích nọc độc, toàn thân sưng u, đau nhức cùng ngứa ngáy lắm, hối hận thì đã trễ.

Tế Phật:  Lúc sống nói ngon nói ngọt, lời lời như hoa nở, ngươi nói ngươi thần thông quảng đại, nhưng lại giống y như con ong độc, hại người nhiều, cứu người ít, cho nên phải chịu báo ứng. Khuyên các nhà tướng số trên thế gian học đạo tu thân dùng chân lý chỉ rõ bến mê cho người, giải quyết nghi nan cho đời thì ắt công đức vô lượng. Ngược lại, nếu nói bậy để móc hầu bao của người thì không đáng gọi là thầy tướng, địa ngục ắt có chỗ dành sẵn cho vậy. Hôm nay thời gian eo hẹp, chúng ta sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Xin hỏi Ngục Quan là có phải bọn "thần cướp" sau khi chết đều bị giam tại ngục này phải không?

Ngục Quan:  Không nhất thiết như vậy, có kẻ chuyên môn gạt nữ sắc, trường hợp đặc biệt này thì giam tại ngục khác. Ngục này chỉ giam một số mà thôi.

Dương Sinh:  Vì thời giờ đã trễ, đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã chỉ giáo cho. Thầy trò tôi xin cáo biệt.

Ngục Quan:  Lệnh cho Tướng Quân cùng đám tuỳ tùng tiễn chân hai vị.

Tế Phật:  Đa tạ Ngục Quan, chúng tôi xin từ biệt, Dương Sinh chuẩn bị rời ngục, mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, xin ân sư trở lại hiền Đường.

Tế Phật:  Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

HỒI HAI BA MƯƠI

 THĂM VỌNG HƯƠNG ĐÀI GẶP GỠ SÂM LA VƯƠNG

 Dương Tiển Tiên Sư

Giáng ngày mồng 13 tháng 4 năm Đinh Tỵ (1977)

 

Thơ:

Địa phủ tầm u quá ngũ quan

Trước thư khuyến hoá độ mình ngoan

Đào chi chấn khởi tà ma phục

Cảnh thế chung thành hướng cửu hoàn.

Dịch:

Năm cửa âm ti vượt tối tăm

Khuyên răn viết sáh độ ngu đần

Cành đào vung phất tà ma sợ

Chuông vọng khắp trời gọi thế gian.

 

Tiên Sư:  Hôm nay vì Tế Phật bận việc, không thể dẫn Dương Sinh dạo âm phủ được. Ta phụng chỉ đức Ngọc Đế đặc biệt xuống Thánh Hiền Đường để hướng dẫn Dương Sinh dạo thăm âm phủ. Vì thời giờ đã trễ, chúng ta chuẩn bị khởi hành.

Dương Sinh:  Bạch ân sư, bữa nay thầy đích thân dẫn đường, đội ơn thầy nhiều lắm, nhưng thầy lại mang theo con chó để làm chi vậy? Những lần trước ân sư Tế Phật đưa con đi thì đều ngồi toà sen, không rõ hôm nay thầy dùng phương tiện di chuyển gì để đưa con đi.

Tiên Sư:  Tế Phật có đài sen còn ta không có, là vì Tiên và Phật có những pháp thuật khác nhau. Hôm nay mình cỡi con chó này.

Dương Sinh:  Chó chạy chậm lắm, trông nó lại hung dữ quá chừng, người ta tới gần sợ hết hồn, bị nó cắn hẳn là nát mình nát mẩy.

Tiên Sư:  Đây không phải là chó phàm trần mà là chó trời, là sức mạnh của chân ta. Đạo hạnh của nó không nhỏ, lẽ nào nó lại cắn con.

Dương Sinh:  Bởi lẽ chó chạy quá chậm, sợ ảnh hưởng đến cuộc hành trình.

Tiên Sư:  Dương Sinh cứ yên tâm, bốn chân của chó trời nhanh như bốn bánh xe hơi ở cõi hồng trần vậy, tốc độ của nó còn lẹ hơn ngồi đài sen nữa.

Dương Sinh:  Con đã chuẩn bị kỹ càng, thầy ngồi phía trước xin hết sức cẩn thận, kẻo không con rớt xuống thì khổ lắm.

Tiên Sư:  Con nhắm hai mắt lại, không gặp tai hoạ đâu, cứ yên tâm.

Dương Sinh:  Chẳng hiểu cuộc hành trình bữa nay tới đâu?

Tiên Sư:  Hôm nay tới thăm Đệ Ngũ Điện ở âm phủ. Chớ hỏi nữa, thời giờ đã trễ, chúng ta khởi hành. Đã tới nơi, xuống mau.

Tiên Sư:  Tiên Phật cùng một nhà, cũng như người trên đời mua hai chiếc xe cùng là xe máy, nhưng nhãn hiệu khác nhau, đều tự cho là phẩm chất thượng thặng, không rõ trong ruột mới quyết định hơn thua. Lòng người giống như động cơ máy nổ, động cơ nếu như tốt lành hẳn giúp lòng người bình thản, chạy trên đường lớn hẳn sẽ không gặp trở ngại.

Dương Sinh:  Thầy nói rất có lý. Đám đông phía trước đang chen chúc tiến lên đài. Các nam nữ tội hồn đang bị âm binh áp giải tới, có một số không bị sai áp, vẻ mặt tươi cười hớn hở. Không rõ đây là chốn nào?

Tiên Sư:  Đây là Đài Trông Quê (Vọng Hương Đài). Những tội hồn tới địa ngục bị giải qua Đệ Ngũ Điện, để lòng nghĩ tới Đài Trông Quê sẽ nhìn thấy con cháu ở dương gian. Họ không cầm nổi nước mắt nên khóc than không dứt. Những hồn không bị thụ hình cũng đến đài nhìn về quê hương để xem con cháu ra sao?

Dương Sinh:  Phía trước có một số người ngựa khí thế oai nghiêm, không rõ là thánh thần nào?

Tiên Sư:  Ngũ Điện Sâm La Vương và Điện nội văn võ bá quan đã xuống thềm để nghinh tiếp chúng ta, mau tới vái chào ra mắt.

Dương Sinh:  Tôi là Dương Sinh môn đệ của Thánh Đế tại Thánh Hiền Đường thuộc Đài Trung phụng chỉ viết Địa Ngục Du Ký để làm sách khuyên đời. Bữa nay do Dương Tiển Tiên Sư hướng dẫn xuống thăm âm ti, đến Đệ Ngũ Điện kính thỉnh Sâm La Vương giúp đỡ phương tiện để tiện việc soạn sách được hoàn tất thuận lợi.

Diêm Vương:  Công đức của Thánh Hiền Đường thật là cao dày, mở nhà truyền giáo, viết sách dạy đạo cảm hoá được rất nhiều người. Ta hiện cai quản Đệ Ngũ Điện, rất nhiều vong hồn tại thế đã từng đọc qua sách của quí Hiền Đường, đã in kinh sách để ấn tống cho nên tội lỗi đã giảm bớt nhiều, vì Hiền Đường đã tích luỹ nhiều âm công nên tôi đã phê cho họ sớm được siêu sinh hoặc căn cứ vào công lao mà chứng đạo cho họ.

Dương Sinh:  Đa ta sự chiếu cố của Diêm Vương, chỉ có tự tạo công đức mới được ngài khoan thứ.

Diêm Vương:  Miễn lễ, hãy đứng lên. Nhị Lang Thần Quân cùng Dương sinh hãy theo tôi vào điện nghỉ ngơi.

Tiên Sư:  Vì không thể kéo dài thời giờ, xin khất để lần khác. Bữa nay tôi xin dẫn Dương Sinh lên Đài Trong Quê xem xét.

Diêm Vương:  Muốn như vậy thì cũng được, để tôi đưa hai vị lên Đài Trông Quê.

Dương Sinh:  Đa tạ Minh Vương đã dẫn đường.

Diêm Vương:  Phàm những tội hồn đi tới Ngũ Điện đều phải qua Đài Trông Quê để nhìn lại con cháu ở dương gian. Nhưng đại đa số các vong hồn đều rất si tình cho nên đều quyến luyến con cháu cùng cảnh thế gian. Dù có tội hay không có tội đều được tới đó nhìn một lần.

Dương Sinh:  Nỗi lòng của con người quả là khó nguôi khuây. Phía trước âm binh lại áp giải tới một ông lão, lúc ông ta nhìn đài này lệ đổ như mưa, không hiểu tại sao ông ta lại khóc lóc thảm thương?

Diêm Vương:  Vì lúc sinh tiền ông lão này phạm ác nghiệp, cho nên sau khi chết phải tới âm phủ thụ hình, đến nay hạn thụ hình vừa mãn, tới đây để nhìn lại con cháu, nhưng con cháu không hề thương cảm. Ông thấy kẻ thì ngồi xem truyền hình ở sảnh đường, kẻ thì nằm ở trong phòng, không một đứa nào nghĩ tới cha ông cả. Nghĩ lại lúc còn sống phải vất vả vì con cháu nên ông cảm thấy rất đau lòng.

Lúc còn sống đã không chăm lo tu đạo, lúc chết còn mong con cháu khấn cầu siêu độ cho thì thật là khó khăn. Con cháu căn bản đã không tin có thần thánh cùng nhân quả thì làm sao chúng có thể tin nổi sự cầu siêu cho người quá cố . Cho nên hồn đến âm ohủ giờ đây mới hối  không kịp. Nếu còn đủ tinh khí thần mà chịu làm những việc thiện đức thì đấy chính là lo bảo hiểm về sau.

Dương Sinh:  Tại sao trên Đài Trông Quê tôi chỉ thấy trắng xoá, không một hình ảnh nào khác hiện ra cả?

Mắt người là mắt thịt. Tuy Tế Phật trước kia đã từng đưa người đi tắm ao Thanh Tâm, nhưng bởi đã lâu cho nên bụi trần lại phủ đầy, do đó mắt tục nhìn Đài Trông Quê mới chẳng thấy gì. Đó là một cơ quan ảo diệu biến hoá vô cùng.

Diêm Vương:  Nơi dương thế bụi trần quá nhiều nên hai mắt biến thành mắt cát, do đó nhìn vật không rõ. Văn Phán Quan hãy mau đem nước Tĩnh Thuỷ cho Dương Thiện Sinh rửa mắt.

Văn Phán Quan:  Tuân lệnh. Đã mang nước Tĩnh Thuỷ tới, xin Chúa Công định liệ .

Minh Vương:  Đưa đây cho ta. Dương Thiện Sinh hãy mở lớn hai mắt ra rồi dùng nước Tĩnh Thuỷ này mà rửa mắt cho sạch...

Dương Sinh:  Đa tạ Minh Vương đã ban cho nước Tĩnh Thuỷ, quả nhiên hai mắt trong sáng vô cùng.

Minh Vương:  Bây giờ Dương Thiên Sinh hãy nhìn lại Đài Trông Quê xem.

Dương Sinh:  A, thật là hay quá, mọi hình ảnh tại Thánh Hiền Đường lần lượt hiện trên đài, mắt nhìn thấy rõ mồn một. Môn đệ ngồi hai bên kiên trì thành tâm hộ giá, thân thể tôi đang ngồi trước sa bàn giữa chánh điện. Ngọc Hư đồng tử dìu thân tôi chấn bút tại sa bàn mà chép lẹ. Những thư ký của Hiền Đường cũng chực sẵn hai bên ghi chép. Sư huynh Sa Sinh Lâm cũng đang đọc, chữ hiện ra như trên màn ảnh vậy.

Diêm Vương:  Đài Trông Quê ảo diệu không thể hình dung được, tại Hiền Đường có Ngọc hư đồng tử dùng pháp nhãn chân truyền giúp nhục thể Dương Sinh, cho nên khi Dương Sinh nhìn thấy sự việc gì ở cõi âm này thì sự nhìn thấy đó được hiện rõ lên sa bàn. Và Ngọc Hu đồng tử với hai mắt giống như ở Đài Trông Quê, đủ tuệ quang của âm dương phát ra nên đã nhìn thấu được vậy.

Dương Sinh:  Thiên địa tạo hoá không thể nghĩ bàn, phía trước lại có một vong hồn, hồn này không bị áp giải, âm binh chỉ dẫn đường thôi. Và không hiểu tại sao họ lại vui tươi hớn hở đến vậy.

Diêm Vương:  Người khi còn sống tâm tính lương thiện, lại nhập thánh môn tu đạo nhưng công quả không được lớn, và vì mới chết nên nhìn thấy con cháu đang khấn khứa trước bài vị, lòng hiếu thảo của con cháu rất là mãnh liệt cho nên người này nhìn thấy thật rõ ràng. Tuy công đức không lớn nhưng tự biết là sinh tử không thể thoát được, vì không buồn thảm cho nên sẽ được vào tu luyện Sở Tu Thiện, sau này hy vọng được làm thần.

Dương Sinh:  Tôi có một điều xin hỏi Minh Vương, tại sao vong hồn mỗi khi tới Đài Trông Quê lại lập tức thấy ngay hình ảnh dương gian còn tôi thì lại chẳng thấy?

Diêm Vương:  Bởi ngươi còn là người trần, nên tính linh còn liên quan với nhục thể, dương khí chưa hết, cho nên không thể nhìn được toàn bộ cơ quan âm ty. Còn các vong hồn vì nhục thể đã chết, âm dương cách biệt, phương thức sinh hoạt cải biến cho nên vào cõi âm mà thấy được cõi dương. Tính linh ở cõi âm biến hoá muôn mặt, còn tính linh ở cõi trần thì không thể làm như vậy được.

Thời giờ đã trễ, đa tạ Ngũ Điện Sâm La Vương cùng các quan viên, thầy trò chúng tôi xin phép chuẩn bị trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Cảm tạ Minh Vương cùng các Tiên Quan đã giúp đỡ chúng tôi phương tiện, giờ đây chúng tôi phải trở lại Hiền Đường. Ngày khác xin tới thụ giáo thêm.

Minh Vương:  Tướng Quân cùng quan viên hàng ngũ chỉnh tề để tiễn chân.

Tiên Sư:  Dương Sinh mau mau xuống đài.

Dương Sinh:  Đa tạ. Không biết tại sao giữa hai chân mày nơi trán thầy lại có thêm một con mắt và có tác dụng gì không?

Tiên Sư:  Ta có thêm một mắt và mắt đó là mắt trời (thiên nhãn) tam tài hiệp nhất, nhật nguyệt tinh cùng chiếu, công lực rất lớn, chuyên bắt những yêu ma quỉ quái ở cõi phàm. Bọn chúng nếu thấy ta thì hồn bay phách tán.

Dương Sinh:  Lời hại tới mức đó thì thật quả đúng là mắt nhìn thấu muôn lòng.

Tiên Sư:  Nhà ngươi không được nhìn lén, kẻ có nhãn quang, ngẩn cao đầu, luôn luôn nhìn thần  minh ở trên, kẻ lòng dạ xấu xa ác độc đau dám làm như vậy.

Dương Sinh:  Mới gặp mặt thầy, có mớt mà chẳng nhìn thấy núi Thái Sơn, con hí ha hí hửng, chẳng quái gở lắm sao?

Tiên Sư:  Không quái gở, không quái gở. Mau cưỡi chó trời, chuẩn bị trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh:  Con đã sẵn sàng, mời thầy đi....

Tiên Sư:  Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đi, hồn phách nhập thể xác.

HỒI BA MƯƠI MỐT

DẠO ĐỆ NGŨ ĐIỆN NGHE DIÊM VƯƠNG LUẬN VỀ MỔ NGỰC MOI TIM

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 29 tháng 4 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Ác độc tâm trường ác quỷ tru
Thiên mưu vạn kế tổng thành vô
Diêm la thiết diện phù hàn sắc
Tử hậu phương tri thế lộ thử.

Dịch:

Lòng dạ xấu xa ác quỷ trừ
Ngàn mưu vạn kế thảy phù du
Lưới trời mặt sắc hàn băng giá
Tới chết đường trần mới hiểu ra.


Tế Phật: Kỳ trướcta bận việc phải nhờ Dương Tiển Tiên Sư thay thế ta dẫn Dương Sinh dạo thăm địa ngục, nên lần đầu tiên hai họ Dương mới cùng tới thăm Đệ Ngũ Điện. Không những mọi việc diễn tiến tốt đẹp mà còn tỏ lộ được giềng mối đạo sâu kín cao dày, hy vọng người đời sẽ dốc tâm tìm đọc kinh sách vô lượng quí báu này. Cũng cần chăm chú lắng nghe những dư âm bên ngoài dây đàn vang vọng, bởi lẽ văn chương chủ nghĩa không thể nói hết được nhưng điều tế vi huyền diệu của đạo lý. Chẳng khác nào kẻ ăn dưa phải ăn ruột, còn gặm vỏ thì làm sao thưởng thức được cái hương vị ngon lành ngọt mát của dưa. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh lên đài sen.

Dương Sinh: Xin vâng lời. Thưa ân sư trước đây ân sư dạy là Tiên Phật có thể biến hoá vô cùng, tại sao lần trước lại không thi thố được thuật phân thân?

Tế Phật: A ha, đâu phải là thiếu pháp thuật phân thân, mà là ta cố ý mời Dương Tiển Tiên Sư tạm thay thế ta một lần là cốt đ6? gây sự hứng thú cho chúng sinh mà thôi. Thời giờ đã trễ, chúng ta phải chuẩn bị khổi hành....

Dương Sinh: Con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới Đệ Ngũ Điện, mau xuống đài sen. Diêm La Thiên Tử cùng các vị Tiên Quan đã xuống thềm để tiếp đón chúng ta, mau tới vái chào ra mắt.

Diêm Vương: Xin đứng dậy, hân hoan đón mừng Dương Thiện Sinh cùng Tế Phật đã thân hành xuống thăm âm phủ, mời hai vị vào trong nghỉ ngơi, bàn bạc.

Tế Phật: Lần này thầy trò chúng tôi phụng chỉ viết sách, tới thăm Đệ Ngũ Điện là mới chỉ hoàn thành được phân nửa nhiệm vụ. Vậy xin Minh Vương hãy hiệp lực với tôi để cùng hoàn thành nhiệm vụ của Thần Thánh đã giao phó, để quả vị phát tâm lãnh chỉ được viên mãn sáng chói.

Diêm Vương: Thưa Tế Phật, ngài nói rất đúng thời đại này là thời đại của máy móc, lòng người không còn được như xưa, đạo đức đã mất, nên rất may là thấy lập ra nhiều bảo điện, hiền đường để truyền bá giáo lý cùng đạp pháp rất phù hạp với lẽ Trời. Công chỉ dạy Thánh Hiền Đường đã cứu độ được biết bao người, thành tích xây dựng văn hoá đạo đức thật là tốt đẹp lớn lao. Việc lãnh sắc chỉ của Ngọc Hoàng để viết sách Địa Ngục Du Ký thực là vinh hạnh, các ngục của Thập Diện thuộc âm ti đã tiếp nhận được sắc lệnh của Ngọc hoàng từ ngày rằm tháng tám năm Bính Thìn (1976) nên biết rõ việc viết sách của quý Dường và có ý chờ đợi hai vị xuống thăm đã lâu. Xin mời vào trong nghỉ ngơi đàm luận một phen.

Dương Sinh: Đa tạ Diêm Vương đã tiếp đãi quá nồng hậu, ngoài điện các vong hồn đông nghẹt, mặt cắt không còn chút máu, hồn kinh phách lạc, có một số lại chăm chú ngó vào đây.

Tế Phật: Ngũ Điện Diêm la mặt sắt rất vô tư, trên dương gian từ lâu đã khét tiếng thi hành hình phạt rất nghiêm. Tội hồn tới đây nghe nói đều tán đỏm, do đó giờ đây kẻ nào kẻ ấy hồn đều tán loạn.

Diêm Vương: Mời hai vị mau vào trong nghỉ ngơi.

Dương Sinh: Xin đa tạ.

Diêm Vương: Mời hai vị ngồi. Văn Phán Quan đâu? Mau dâng trà tiên.

Văn Phán: Xin tuân lệnh . Thưa đây là trà tiên, kính mời Chúa Công cùng nhị vị tiên trưởng dùng, xin chớ kháh sáo.

Dương Sinh: Tôi đang khát, uống một tách hương vị đậm đà quả đúng là trà tiên.

Diêm Vương: Tôi rất thích uóng loại trà Đông Đính Thiết Quan Âm này.

Tế Phật: Lời nói của Diêm Vương bao hàm nhiều ý nghĩa sâu kín, chẳng hay Dương Sinh có hiểu hết không?

Dương Sinh: Thế gian thường đồn đại Ngũ Điện Diêm Vương chính là Bao Công, một danh thần đời Tống giáng lâm thì quả là đúng lắm vì Đông Đính biểu thị vẻ mặt lạnh như băng, Thiết Quan Âm là Bồ Tát lòng dạ cứng như sắt thì đó chỉ là tác phong của riêng Bao Công đại nhân mà thôi.

Diêm Vương: Ha ha, danh thánh bút của thánh Hiền Đường quả chẳng hư truyền, tuệ căn đoạ khí phi phàm, đoán rất trúng ý ta.

Dương Sinh: Đó chỉ là đoán mò mà thôi.

Diêm Vương: Bữa nay hai vị dạo thăm bản điện, chúng tôi rất vui mừng. Tình đời nóng lạnh bất thường, xã hội loài người sinh hoạt như hiện nay tranh dành đoạt lợi chôn vùi đạo trời tốt lành, ân đức đẹp đẽ. Khắp nơi mưu mô giành giựt, khắp chốn kẻ nọ ganh ghét người kia. Mở mang các thương trường để kinh doanh phong hoá mà mưu cầu lợi lộc, quán ăn quán nhậu mở ra đầy dẫy, sử dụng sắc đẹp để khích động tà tâm dâm tình. Âm phủ ngày đêm đi tuần, mỗi bận đều ghi chép những hành động làm thương tổn âm đức, có thể nói rừng trúc cũng không ghi chép hết. Lại có những chốn ăn chơi, giải trí trường vui quá hoá buồn mà chết. Ta cai quản Đệ Ngũ Điện Thiết Diện Vô Tư, thấy các tội hồn khi bị tống giam vào ngục đều kinh hoàng. Ta vốn xét xử chính trực nghiêm minh, người đời nếu không sớm quay đầu đổi mặt hẳn là ngày sau sẽ phải đến Dệ Ngũ Diện để thử một lần cho biết, đừng trách ta vô tình. Bản điện mệnh danh là Đại Địa Ngục Kêu Than, bất cứ ai khi bị nhốt vào ngục cũng đ6ù khóc lóc; còn Thập Lục Trụ Tâm Tiểu Dịa Ngục chuyên chém thấu tim những tội hồn lúc sinh tiền mắc phải những lỗi lầm như: tà tâm, độc tâm, oán tâm, hận tâm, dâm tâm, đố tâm, thiên tâm, tư tâm, lang tâm, cẩu tâm, thú tâm. Những tội hồn mang thứ tâm đó ta đều ra lệnh cho Tướng Quân chém ngang ngực moi tim ra, hình phạt thật là thảm khốc, không phải là ta không từ bi nhưng vì tội hồn đã tự gây ác nghiệp mổ ngực móc tim. Hôm nay thời giờ đã trễ, bữa khác tôi sẽ đưa nhị vị tới thăm địa ngục moi tim.

Tế Phật: Vì thời giờ đã trễ lại thêm Diêm vương hối thúc, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh: Vô cùng cảm kích vì Diêm Vương đã tiếp đãi nồng hậu cùng ân ban lời vàng ngọc, chúng tôi sửa soạn trở lại Hiền Dương, xin bái từ Diêm Vương cùng chư quan.

Diêm Vương: Lệnh cho văn võ bá quan hàng ngũ tề chỉnh để tiển chân quý khách.

Tế Phật: Xin đa tạ Diêm Vương đã tiếp đãi nòng hậu. Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, xin ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.


...........................................................


HỒI BA MƯƠI HAI

DẠO ĐỊA NGỤC MOI TIM

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 5 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Huỷ tổ khi thần thực khả bi
Sùng dương diệt kỷ muội lương tri
Trung Hoa đạo đứ thiên hưu kế
Văn Hoá tinh anh đại hữu vi

Dịch:

Khinh miệt tổ tiên thật đáng buồn
Quên mình vọng ngoại nhuộm hồn đen
Cổ truyền đạo đức ngàn năm vững
Văn hoá tinh anh thế giới truyền.


Tế Phật: Đạo đức văn hoá Trung Hoa vốn là tinh khí của thiên địa kết tụ, cho nên trải rất nhiều đời mà vẫn mới, muôn ngàn năm không dứt được. Chỉ tiếc cho lòng người bay giờ lại ham chuộng hiện thực theo đuổi vật chất, tự coi thường văn hoá của mình hoàn toàn đua đòi theo văn hoá Tây phương, chỉ nghĩ đến rượu thịt, dâm phong hung bạo. Xã hội đầy dẫy bọn vong bản quên nòi giống tổ tiên, tôn người diệt mình, sùng thượng Tây phương tới mức tự hại chính mình thì xấu hổ tới cả con cháu đời sau. Càng tệ hại hơn nữa là gần đây khoa học kỹ thuật phát đạt lại còn khoe rằng "nhân năng thắng thiên" (người sẽ thắng trời). Chưa hiểu rằng chỉ cần một cơn sóng biển thì đó có khác gì một chiếc thuyền con trong biển lớn đâu. Lấy khoa học kỹ thuật mà phá hoại đại tự nhiên rồi xưng là thắng Trời sẽ hứng lấy cái hoạ sau này. Con người mà thoát ly tự nhiên thì thường sinh hoạt bất chính, cho nên những kẻ tính tình hào hiệp, nhân đức cần phải suy nghĩ chính chắn rồi hãy làm. Nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã chuẩn bị xong, xin ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã đến nơi, mau xuống đài sen.

Diêm Vương: Hoan nghênh Tế Phật và Dương Sinh lại tái thăm bản điện, thật là vất vả khổ cực.

Tế Phật: Không có chi, hôm nay lại thêm lần nữa chúng tôi tới quấy rầy quý điện, xin Diêm Vương dẫn vào ngục tham quan.

Diêm Vương: Lần trước tôi đã hứa sẽ dẫn nhị vị tới ngục móc tim để quan sát. Vậy bây giờ xin đi theo tôi. Các Tướng Quân hãy họ giá.

Dương Sinh: Xin đa tạ sự giúp đỡ của Minh Vương. Phía trước là ba mươi sáu ngục moi tim, đã nghe tiếng kêu than thảm khóc vang dội, chắc chắn là trong đó lại là trường máu đổ thịt rơi của kẻ bị hành hình.

Diêm Vương: Các tội hồn đều đã biến tâm cho nên tới địa ngục đều muốn đem tâm ra chữa trị lại.

Dương Sinh: Ngục Quan đã tới, tôi phải đến tham bái trước đã.

Ngục Quan: Kính chào chúa công, Tế Phật và Dương Thiện Sinh, bản ngục đã nhận được điện văn biết Dương Thiện Sinh thuộc Đài Trung Thánh Hiền Đường cùng Phật Sống Tế Công thuộc Tây Phương Cực Lạc bữa nay sẽ thân hành tới thăm bản ngục. Có điểm chi thất lễ xin rộng lượng tha thứ cho.

Dương Sinh: Ngục Quan nói quá lời, bữa nay chúng tôi theo ân sư đến đây với quý vị để làm công việc viết sách Địa Ngục Du Ký, xin chỉ giáo nhiều cho.

Diêm Vương: Tướng Quân mau mở cửa.

Tướng Quân: Xin tuân lệnh...Đã mở rồi, mời vào trong để tham quan.

Dương Sinh: Chao ôi! Tiếng kêu than thê thảm không cách nào chịu nổi, thấy trong ngục tiểu quỉ dùng dao mổ ngực các tội hồn rồi móc trái tim ra, không khác gì đồ tể giết lợn moi tim lợn ra vậy. Tội hồn bị trói vào cây cột ngực bị mổ banh ra, hồn rống lên một tiếng thảm thiết rồi hôn mê bất tỉnh, chẳng hay bọn chúng phạm tội gì?

Ngục Quan: Trước tiên tôi hãy đổ nước hoàn hồn cho một tội nhân tỉnh lại.

Dương Sinh: Quả là thần diệu, tội hồn được tưới một bát nước, ngực lành người tỉnh táo lại như cũ.

Ngục Quan: Tôi dắt mấy tội hồn ra để họ tự thuật lại những hành vi phạm ác nghiệp trước đây.

Tội Hồn: Dạ thưa, lúc sinh thời tôi đọc nhiều sách, học hết bậc đại học, được hấp thụ tư tưởng mới, rồi trong lòng say mê tân văn hoá. Trong trường có một vị giáo sư thuộc Cơ Đốc Giáo. Y khuyên tôi theo học đạo, không những thông thạo Anh văn, lại còn có cơ hội xuất ngoại. Tôi thấy tương lai như vậy là một con đường rất tốt bèn nhận lời. Từ đó thỉnh thoảng tôi lui tới giáo đường để nghe mục sư giảng đạo, học anh văn. Giáo đồ vào nghe đa số là thanh niên bạn hữu, khi tới đó thì đều được học và được giao thiệp với nhau. Có thời kỳ tôi hoạt động trong một đoàn thể thanh niên, sau khi chịu lễ thánh tẩy, nghĩ lại quê hương mình chỉ biết tế lễ Thần Thánh, tôn kính Phật là không hợp với trào lưu thời đại mới; và sự lễ lạy những pho tượng là do lòng tu mê tín. Từ đó tôi trở về làng quyết tâm cải biến tín ngưỡng trong nhà. Đầu tiên tôi khuyên cha mẹ tôi bỏ việc thờ lạy thần tượng. Cha mẹ tôi vì cố chấp đã lâu và rất kiên trì giữ vững niềm tin nơi đạo giáo nên không chịu bỏ. Trong lúc nóng giận tôi đã đem những thần chú, bài vị trên bàn thờ tổ tiên quăng xuống đất. Cha mẹ tôi thấy vậy nổi giận vác bàn cờ ném tôi, tôi tức quá không trở về nhà nữa. Sau khi tốt nghiệp tôi lại theo mục sư đi khắp nơi để truyền đạo, được giáo hội phong chức rồi cử đi đến một nơi xa. Sau này tôi bị tai nạn xe cộ mà thác, khi tôi chết thì giáo chủ của tôi là vị giáo chủ Cơ Đốc Gia Tô không tới gọi tôi lên thiên đường mà lại bị ác quỉ áp giải đến địa ngục, rồi bị Diêm Vương phán giam tại Ngục Moi Tim để thụ hình. Xin Diêm Vương xá tội cho tôi.

Diêm Vương: Tín ngưỡng tôn giáo vốn không phân chia khu vực, tôn giáo nào thì cũng chủ trương tín ngưỡng làm đầu. Nhưng mi đã vong bản quên mất cội nguồn, phá hoại thần chú bài vị của tổ tiên, vậy thì phương pháp tín ngưỡng đó làm sao giáo hoá được thế nhân uống nước nhớ nguồn được. Tuy người truyền đạo nói là không được lễ bái thần tượng, nhưng vì chân lý mi không ngộ, thập tự giá và thánh kinh, mục sư kia cũng là tượng thì tại sao mi lại bái lạy? Nếu nói là phải từ bỏ thần tượng thì mi không thể nào nhìn những giả tướng ở thế gian, không được tham lam hưởng thụ nhục thể, thành thực giữ trọn tinh thần hư không. Không lễ lạy thần tượng tức là sùng thượng tinh thần tín ngưỡng để cầu sống lâu. Mi đã giải ra cái ý như vậy cho nên mi mới phá hoại thần chú bài vị, cắt đứt tổ đức, thử hỏi thân của mi ở đâu mà có, mi mang họ gì? Nhất thiết đều do tổ tiên của mi đã ban phát cho mi. Trên Trời có đức Đại Thượng Đế thì tổ tiên là Tiểu Thượng Đế mà mi vong bản, khinh khi tổ tiên, làm việc trái điều dạy của Thượng Đế cho nên Thiên Đường không nhận mi để cho mi rớt xuóng địa ngục. Mi đã tự khai thị, giảm khinh cho mi hai tháng tội. Sau khi mãn hạn tù ở đây mi sẽ phải đầu thai sáu kiếp luân hồi.

Tế Phật: Tín ngưỡng ton giáo dạy cho người ta tu tâm dưỡng tính, không phải để cho người ta tố cáo bài xích lẫn nhau, tự cho mình là phải. Luật Trời đã định, tố cáo tôn giáo khác là sai, tự cho mình phải đó là sinh ra lòng chia rẽ. Cái tâm từ bi bác ái đã mất thì không thể chính đạo. Nếu quả những người đó chứng được đạo thì Thần Thánh ắt sinh lòng riêng rẽ. Nếu Thần Thánh Tiên chia ra riêng từng nhóm, từng phe thì trên Thiên Đường sẽ biến thành chiến trường, làm sao mà gọi là thanh tịnh cực lạc được. Hôm nay thời gian đã trễ, bữa khác trở lại tham quan. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền Đường.

Diêm Vương: Ra lệnh cho chư tướng hàng ngũ chỉnh tề để tiễn chân.

Dương Sinh: Vì thời giờ eo hẹp, không thể lưu lại đây lâu hơn. Đa tạ Diêm Vương, Ngục Quan cùng chư Tướng Quân đã hướng dẫn cặn kẽ, chúng tôi xin cáo từ.

Tế Phật: Mau lên đài sen.

Dương Sinh: Thưa con đà chuẩn bị sẵn sàng, mời ân sư trở lại Hiền Đường....

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.


.......................................................


HỒI BA MƯƠI BA

DẠO ĐỊA NGỤC MOI TIM LẦN THỨ HAI

Tế Công Hoạt Phật
Giáng ngày 29 tháng 5 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Vô tài mỗi phát đố hiền tâm
Huỷ báng tha nhân sử kiếm âm
Ác độc hoành hành chung thọ báo
Tru tâm địa ngục khiếu ai âm.

Dịch:

Kẻ ngu ghen ghét kẻ hiền tâm
Nói xấu bày mưu hại ngấm ngầm
Hành động bất nhân rồi quả báo
Hồn giam địa ngục khóc ngày đêm.


Tế Phật: Thế gian có một loại người bản thân không có tài cán gì, thấy người khác có tài năng bèn đem lòng ghen ghét. Ngấm ngầm sử dụng mưu mô hiểm độc, bày trò thị phi, vạch lá tìm sâu nói xấu người này người nọ. Khi thấy kẻ khác tu không cùng tín ngưỡng với mình thì bày trò phỉ báng, gièm pha cho nên bị sa xuống Địa Ngục Moi Tim này. Cái hại đó là do lòng ghen ghét người hiền. Dương Sinh mau sửa soạn lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã sẵn sàng, mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã đến nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh: Quả nhiên Địa Ngục Moi Tim đã hiện ra trước mắt.

Tế Phật: Hôm nay chúng ta không tới quấy rầy Minh Vương để tiết kiệm thời giờ cứ vào thẳng ngay Mười Sáu Ngục Moi Tim. Ngục Quan đã mở cửa ngục sẵn sàng nghênh đón chúng ta.

Dương Sinh: Vậy mình hãy vào mau.

Ngục Quan: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm. Xin mời hai vị vào trong quan sát sự tình.

Dương Sinh: Hình phạt các tội hồn ở địa ngục quả là rất đáng sợ, từ Đệ Nhất Điện mở đầu đến các địa ngục sau này, những điều mắt thấy tai nghe đều đã quá kinh hãi nhưng chẳng thể nào so sánh nổi. Vì hình phạt mà cá tội hồn phải gánh chịu tại Ngục Moi Tim này nó rùng rợn gắp bội phần.

Ngục Quan: Tâm là chủ thể của người. Moi tim là hình phạt thống khổ không thể tả được. Trái tim mà bị hành hạ thì lục căn phải chấn động, cho nên nỗi đau đớn không bút mực nào tả hết được.

Tế Phật: Chúng ta vào trong ngục phỏng vấn vài tội hồn để có thêm tài liệu.

Ngục Quan: Hai vị hãy chờ ở ngoài để tôi vào trong đem mấy tội hồn ra. Lệnh cho các Tướng Quân ngưng việc hành hình, lấy quạt hoàn hồn quạt cho tội hồn tỉnh lại để thấy rõ bọ mặt thật của họ.

Tướng Quân: Tuân lệnh.

Ngục Quan: Mau giải ra đây cho ta ba tội hồn để Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung hỏi rõ tội trạng để viết vào sách hầu khuyên răn người đời.

Tướng Quân: Đã tạm thả ba tội hồn, mau theo Ngục Quan ra ngoài cửa ngục.

Ngục Quan: Đây là Phật Sống Tế Công và Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở dương gian, thầy trò bữa nay phụng chỉ dạo thăm âm ti để viết sách, mau khai hết những tội đã phạm lúc còn tại thế để làm tài liệu soạn sách khuyên đời.

Tội Hồn: tôi lúc còn sống phục vụ tại một cơ quan, vì chưa lập được thành tích, thấy đồng sự thăng quan thì trong lòng sinh ra đố kỵ. Tôi oán viên quản lý đã bất công, cho nên tôi luôn luôn tìm cách báo thù. Do đó kiếm chuyện lén tâu lên thượng cấp, lại còn vu cho kẻ này làm biếng, người kia ăn cắp để ám hại họ. Bốn năm về trước, tôi bị bệnh đâu gan mà thác. Bị quỉ Vô Thường Hắc Bạch áp giải xuống giam tại địa ngục. Sau đó tôi bị đưa lên đài gương soi ác nghiệp để chiếu rõ lại những hành vi hại người của tôi khi trước, để rồi bị giao qua Ngũ Điện Sâm La Vương để thẩm xét. Tại đây Diêm Vương thấy tôi cả giận mắng là không có tài đã chẳng an phận lại còn đố kỵ kẻ hiền tài, lập tâm ác độc hại người, do đó mới bắt tôi thụ hình; ngày đêm bị quỉ cắt tim đau đớn đến xé gan đứt ruột. Lúc còn sống vì không tin nhân quả báo ứng, cho nên lúc chết tôi mới phải chịu cực hình.

Tế Phật: Ghen ghét kẻ hiền tài là đánh mất cái tâm. Mi đã phá hoại sự đoàn kết của tập thể thành ra một thứ ngựa hại bầy. Chúng sinh thường tôn trọng, noi theo người hiền tài mà học hỏi để thăng tiến. Nếu như sinh ra cái tâm đố kỵ thì lúc chết sẽ bị moi tim như kẻ tội hồn này.

Ngục Quan: Tội hồn thứ hai mau thuật lại cho Dương Sinh nghe những hành vi phạm tội lúc còn tại thế.

Tội Hồn: Tôi sinh tiền là một Phật tử quy y cửa Phật, là cư sĩ tu tại gia, đọc rất nhiều kinh sách, nên gặp tín đồ các đạo khác tôi đều khinh thị, nhất là loại tín đồ của đạo Lão, tôi còn cho họ là thấp hèn vì lễ bái quỉ thần ngoại đạo tương lai sẽ không được siêu thăng. Có người đem kinh sách do Thánh Hiền Đường ấn tống tặng tôi, tôi đã không thèm đọc lại còn nói "ma quỉ nhập vào người rồi vung bút lạon lên, đó là một thứ tà đạo". Lúc sống tôi đã phỉ báng các tôn giáo khác và cho rằng mình là kẻ giác ngộ Phật pháp vô lượng cao siêu, không ngờ sau khi chết đi đã không tới được Tây Phương Cực Lạc mà còn bị đày xuống âm phủ. Tôi chẳng được thần hộ Pháp tới nghênh đón mà lại bị âm binh áp giải tới Ngũ Điện tống giam vào ngục. Minh Vương thấy tôi lòng buồn giận mắng: "Mi là quân phản bội Phật A Di Đà, lòng không có chút từ tâm, thân thụ giới, lòng còn oán hận phỉ báng tôn giáo khác, không ngộ Phật pháp bình đẳng, đạo nào cũng có đường lối, giáo nào cũng có lý lẽ, chỉ cần tu hành lương thiện, không được phản pháp, làm việc ác đức đều là chính giáo. Mi biết Phật pháp vô lương, thần thông quảng đại sao còn thoá mạ đạo người, tự xưng mình cao minh? Lúc sống cố chấp thiên kiến, tự cao, tự đại mê cái ta nên sinh lòng phỉ báng pháp, phỉ báng đạo, phỉ báng giáo, Phật tính bị lu mờ nên phải sa xuống chốn này. Mong đồng đạo của Phật, chớ học đòi sự sái quấy của tôi mà tạo ác nghiệp uổng phí một đời cùng rước lấy sự khổ tâm".

Tế Phật: Tâm Phật mi tối tăm mà mi đòi giảng Phật pháp, thật đáng tiếc! Chẳng những bị cắt tim bữa nay mà hôm khác còn bị xẻo lưỡi đau đớn.

Ngục Quan: Tội hồn thứ ba hãy mau khai rõ những hành vi sai lầm lúc còn tại thế.

Tội Hồn: Tôi lúc sống làm việc tại một đền hầu bóng, lúc đầu giữ nhiệm vụ ngồi đồng để tuyên hoá chúng sinh, Thánh Thần rất là linh ứng. Sau đó ông từ giữ đền không lưu tâm tới tôi, tôi thấy mỗi giá đồng vất vả quá mà chẳng đem lại ích lợi cụ thể nào nên mất hết tin tưởng. Tôi bèn nói với các tín hữu của đền là: "Việc đồng bóng do người nguỵ tạo, quí vị chớ có mê tín: Thiện na tín nữ nghe nói vậy mất hết lòng tin, không tới đền học đạo tu thân nữa, tôi cũng bỏ luôn đền chẳng tới hầu bóng. Bảy năm sau tôi ngã bệnh thác, hồn bị âm binh áp giải tới Đệ Ngũ Điện, Minh Vương mắng tôi: "Mi là vai chính phụ đồng, trong đền dù không có quan tâm đến mi mi cũng không nên phỉ báng thánh thần. Mi đã phạm lỗi lớn, vậy đày mi 15 năm ở Ngục Moi Tim sau đó sẽ giải qua địa ngục thụ hình. Thật hối cũng đã muộn, Tế Phật thương tình xin ân giảm giùm cho.

Tế Phật: Thần đồng bóng đại biểu Tiên Thánh, thế nhân không được nhạo báng, nghịch ý tội chẳng tha. Cơ bút là để khuyên đời, lại còn ứng vào thiên vận mà phổ dộ húng sinh cho nên đức Ngọc Đế ra sắc chỉ cholập đền truyền đạo. Phỉ báng nhừng đền đó tội rất nặng, không thể tha thứ. Đã tới giờ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền Đườn.

Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan và các vị Tướng Quân. Xin cáo từ.

Ngục Quan: nếu như hai vị tới thăm bản ngục lần nữa thì hoan nghênh lắm.

Tế Phật: Địa Ngục Moi Tim này rất quan trọng, lần tới chúng tôi sẽ trở lại thăm.

Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, mời ân sư trở lại Hiền Đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.


.......................................................


HỒI BA MƯƠI BỐN

DẠO ĐỊA NGỤC MOI TIM LẦN THỨ BA THÁNG BẢY CỬA QUỶ MỞ

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 3 tháng 7 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Trung Nguyên phổ độ quỷ môn khai
Địa phủ u hồn thừa hứng lai
Thất nguyệt tiêu diêu tam thập nhật
Nhân sinh đắc ý bất đa hồi.

Dịch:

Ngục quỷ ngày rằm được tạm tha
U hồn âm phủ dạ hoan ca
Thênh thang tháng bảy ba mươi buổi
Ham thích trần gian chẳng muốn về.


Tế Phật: Tháng bảy thì các cửa ngục mở rộng, anh em được dịp trở lại dương gian lòng phấn khởi sung sướng, cho nên tháng bảy tục gọi là tháng xá tội vong nhân, mọi việc trên trần đều thận trọng tối đa để tránh sự đụng chạm với các quỷ hồn. Người đời nếu như trong lúc kinh sợ quỷ thần thì tự nhiên không phạm phải những điều lầm lỗi. Cửa quỷ đã mở thì việc dạo âm ti để viết sách có phần trở ngại. Nhưng đã có ta, hoà thượng điên Tế Phật ở đây thì quỷ âm ti sẽ phải tránh xa, Dương Sinh đừng có sợ.

Dương Sinh: Quỷ là do người hoá thân, thấy sự quái gở lòng không kinh hãi thì sự quái gở ắt tiêu tan. Con chẳng sợ chi hết.

Tế Phật: Được vậy thì tốt lắm. Mau lên đài sen chuẩn bị dạo âm ti.

Dương Sinh: Con đã ngồi yên, xin ân sư khởi hành...

Tế Phật: Đã đến nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh: Trước mặt là Quỷ Môn Quan và cửa đã mở, vong hồn chen chúc đi ra, kẻ nào kẻ nấy mặt mày vui tươi hớn hở giống như được hít thở bầu không khí mới.

Tế Phật: Tháng 7 thì Quỷ Môn Quan mở rộng, phàm những vong hồn ở khu bình dân đều được luân phiên nhau ra khỏi ngục dạo chơi đây đó thênh thang. Kẻ nào kẻ nấy như chim sổ lồng hăng hái nhắm ngã dương gian tiến tới.

Dương Sinh: Những vong hồn này tại sao thấy chúng ta lại tránh né như vậy.

Tế Phật: Bởi vì chúng ta mang Ngọc Chỉ ở trong mình, hào quang tỏ lấp lánh khiến các vong hồn sợ hãi.

Dương Sinh: Có phải hàng năm cứ vào tiết tháng bảy, tất cả các vong hồn tại âm phủ được tạm thả đi đây đi đó tự do phải không?

Tế Phật: Không phải. Tháng bảy, Quỷ Môn Quan tuy mở nhưng chỉ mở cho khu vong hồn bình thường mà thôi. Những vong hồn ở khu bình thường lúc sinh tiền tuy không có công đức nhưng cũng không phạm sái quấy cho nên họ mới được an trí ở khu bình thường. Đáng lý họ không được rời cái khu của họ, nhưng đến tháng bảy thì Địa Quan đại xá, họ được luân phiên ra chơi, cho nên ở âm phủ theo đạo quỷ thì rằm tháng bảy tất cả các vong hồn mới ra khỏi ngục để hưởng sự tế độ. Ngày này Phật Giáo gọi là hội Vu Lan Bồn, mà đạo giáo gọi là Trung Nguyên phổ độ. Quan viên địa phủ bình thường làm việc có ngày tháng rõ ràng nhưng âm phủ không ấn định kỳ hạn rõ ràng, đại khái đó là thể thức sinh hoạt của âm phủ. Dương Sinh mau lên đài sen, chúng ta sẽ đến ngục moi tim để quan sát .

Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, xin ân sư khởi hành...

Tế Phật: Đã đến nơi, hãy xuống đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, Ngục Quan đã ra nghênh tiếp. Bữa nay thầy trò chúng tôi lại tới quấy rầy, mong chỉ giáo tường tận cho.

Ngục Quan: Khách sáo quá. Bữa nay nhân dịp tiết tháng bảy, các ngã đường ở suối vàng giao thông bị tắc nghẽn hẵn là hai vị vất vả lắm?

Tế Phật: Không hề chi, chúng tôi thấy bên ngoài các vong hồn hoan hỉ lắm, coi vẻ rât tự do.

Dương Sinh: Mời hai vị quá bộ vào trong quan sát, tôi sẽ cung cấp tài liệu để quí vị viết sách khuyên đời.

Dương Sinh: Xin đa tạ, tôi thấy trong ngục tội hồn rên siết thảm khóc hơn hôm trước nhiều, không hiểu tại sao?

Dương Sinh: Vì gặp tiết tháng bảy, những vong hồn vô tội đều được xuất ngục du ngoạn, những tội hồn này lúc còn sống, nghe người ta nói đến tháng bảy thì nghĩ rằng sẽ được giải thoát nhưng họ có biết đâu rằng gông cùm trói buộc thân họ mất hết tự do, không nhưng được tiêu dao mà còn bị giữ lại. Âm binh vẫn vô tình thi hành hình phạt moi tim, cho nên tội hồn ruột thắt lòng đau, khổ sở gắp bội phần. Thế nhân nếu không sớm chuẩn bị trở thành người lương thiện, làm việc nhân đức, tránh xa tội lỗi, thì sau khi chết đi bị đày xuống đây sẽ chẳng che giấu được, vừa mất tự do vừa bị hình phạt. Vì thời giờ có han, tôi xin gọi tiếp vài tội hồn nữa ra để chúng cung khai.

Dương Sinh: Xin đa ta. Quỷ địa ngục nhẫn tâm dùng dao sắc sả ngực tội hồn,máu tươi chảy ra lênh láng, thảm tới nỗi tôi chẳng dám nhìn.

Dương Sinh: Tôi đã đem ra hai vị tội hồn, mau thuật rõ lại những tội ác đã làm lúc còn sống cho Phật Sống Tế Công và Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường nghe để hai vị ấy viết vào sách hầu khuyến nhân độ thế.

Tội Hồn: Thú thật, tôi chẳng còn mặt mũi nào ngó ai nữa cả. Tôi lúc trung niên nhân khi vợ chết, lòng dục lại chưa dứt, cho nên một bữa nọ tại đồng vắng cạnh làng, gặp một thiếu nữ, lòng dục nổi lên tôi bèn ôm lấy lôi vào vườn mía cưỡng dâm. Thiếu nữ ấy kêu gào giãy giụa, cầu xin tôi buông tha nhưng tôi chẳng còn lý trí càng khủng bố tinh thần nàng thêm. Tôi đã hăm doạ là nếu nàng không phụ tòng thì tôi sẽ giết nàng. Sau cùng nàng chịu khuất phục và bị tôi xâm phạm tiết hạnh. Việc đó sau này tôi biết là trái và hết sức hối hận, mặc dầu thiếu nữ kia không tố cáo thưa gửi nhưng tôi vẫn thấy xấu hổ nên thường tự trách mình. Chẳng bao lâu tôi ngã bệnh thác, hồn tới âm phủ, thấy tôi Minh Vương cả giận song vì tôi đã thú nhận hết tội lỗi nên không cần phải tới đứng trước Đài Gương Soi Ác Nghiệp. Sau đó tôi bị kết án mười năm và bị đày ơ tại Ngục Moi Tim thuộc Đệ Ngũ Điện. Tim hiếu sắc cùng cưỡng dâm của tôi bị cắt mất, tính tới nay tôi đã chịu cực hình được bốn năm. Bây giờ dầu tôi có hối hận cách nào đi nữa thì cũng không còn kịp.

Dương Sinh: Cưỡng dâm phụ nữ, làm hại cuộc đời người ta tội ác rất lớn. Tuy ngươi đã hối cải nhưng mà tội đó không thể tha thứ, bởi lẽ mi đã tự lao mình vào lưới không thể oán Trời giận người được. Khuyên người đời nếu trót phạm phải ác nghiệp dâm dục thì phải lập tức sám hối cùng Tiên Phật, lập đại nguyện hoặc in tặng 1000 quyển Địa Ngục Du Ký để khuyên nhân độ thế thì có thể ân xá, còn nếu không sau khi chết tới địa ngục sẽ bị hành quyết. Lại ra lệnh cho tội hồn khác mau thuật lại những tội ác đã làm.

Tội Hồn: Tôi đau khổ muôn phần, muốn nói ra mà nói không được, vì lúc sinh tiền tôi có phạm một tội rất nặng, hình phạt thảm khóc mà tôi phải chịu sẽ không bao giờ dứt. Kính xin Phật Sống Tế Công giải cứu giùm tôi.

Tế Phật: Lúc sống ngươi ăn chơi hoang đàng quá mức, lúc chết bị quả báo thì ta sao cứu nổi.

Tội Hồn: Tôi quá đau khổ, Tế Công chẳng có phép gì cứu nổi tôi thì thôi, tôi đành chịu tội. Tôi lúc còn sống là kẻ lái xe đón khách. Vì không dược giáo dục cho nên thường làm những việc bậy bạ. Tôi rất hiếu sắc, trong xe của tôi treo đầy hình ảnh khích dâm, cùng máy phát âm. Gặp những nữ khách lên xe một mình thì tôi tìm cách tán tỉnh. Nếu bị mắng là hiếu sắc quỷ dâm dục chẳng hạn thì tôi càng lấy làm thích thú, đã không hề biết xấu hổ lại còn tìm cách cưỡng dâm. Có một lần giữa đêm khuya tôi đón được một thiếu nữ rất đẹp, lòng dục nổi lên, tôi bèn vặn máy phát thanh kêu thật lớn, rồi rồ ga chạy thẳng vào đồng hoang, dùng dao uy hiếp để cưỡng dâm nàng. Tôi hành động bất nhân như vậy đén ba lần, không may năm năm trước đây toi bị tai nạn xe cộ mà thác. Lập tức bị quỷ đầu trâu mặt ngựa dùng xích sắt cột tôi áp giải về âm phủ. Sau khi xét xử xong tôi bị kết án tù ba mươi năm và đày tại Địa Ngục Moi Tim thuộc Đệ Ngũ Điện. Giờ đây tôi vô cùng đau đớn và dầu có hết sức hối hận thì cũng đã muộn. Hy vọng Dương Sinh lúc trở lại Hiền Đường nên khuyến cáo cho người đời biết là lúc sống không nên phạm những tội ác đó, kẻo lúc chết hối không kịp và hình phạt ở địa ngục thì thống khổ vô cùng, không thể nào chịu đựng nổi. Tôi hận mình vì quá nông cạn cho nên đã phạm đại tội, giờ đây không cách nào gỡ nổi.

Dương Sinh: Ác nghiệp của tội hồn này quá nặng, đã bị giảm thọ mười năm tại dương gian, sau khi hết hạn đày ải ở đây sẽ còn bị giải giao qua ngục A Tỳ và vĩnh viễn không được siêu sinh. Người đời nên lấy đó làm gương và nhớ rằng tội ham sắc dục là tội đứng đầu trong muôn ngàn tội. Phàm những cuộc giao du về sắc dục bất chính hoặc cưỡng dâm phụ nữ trong xe, luật âm phủ sẽ không bao giờ tha thứ. Nếu không cẩn thận giữ gìn mà lỡ phạm thì sau khi chết sẽ không có phép gì gỡ nổi.

Tế Phật: Hình phạt moi tim so với hình phạt khác đã khổ cực gấp vạn lần rồi. Người đời chớ có mù quáng tới nỗi phạm phải tội này, nếu không sau khi chết bị quả báo hối không kịp nữa. Bây giờ thời khắc đã trễ, Dương Sinh sửa soạn trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan và Tướng Quân.

Tế Phật: Mau lên đài sen.

Dương Sinh: Xin vâng, con đã sẵn sàng, mời ân sư trở lại Hiền Đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.


.........................................................


HỒI BA MƯƠI LĂM

DẠO ĐỊA NGỤC MOI TIM LẦN THỨ TƯ

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 7 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Hiếu đổ do như phó hoả nga
Gia tài vạn quán tận tiêu ma
Tham dâm đảm phụ táng danh tiết
Truỳ lạc thâm khang oán nại hà.

Dịch:

Bạc bài ham thích kiếp thiêu thân
Phú quí sang giàu phút chốc tan
Thiếu phụ tham dâm vùi tiết hạnh
Hang sâu đoạ lạc há kêu than.


Tế Phật: Bọn du thủ du thực không lo làm ăn, không chịu kiếm công kiếm việc, chỉ chuyên cờ bạc làm kế sinh nhai. Nhiều kẻ lương thiện bị dẫn dụ rớt vào bẫy sập, bị tán gia bại sản thật là đáng thương. Gần đây đất Trung Bộ sinh ra bọn cướp của giết người, đều do cái nạn cờ bạc gây ra. Kẻ đánh bạc đã vô tình sa vào con đường tội lỗi và nguy hiểm, cho nên nhỏ thì thành ăn trộm, lớn thì thành ăn cướp tù tội phát sinh. Do đó cờ bạc hại rất nhiều người, mầm độc rất lớn, người đời chớ có dính dấp vào những việc đó để sau này khỏi ân hận. Tội dâm dục là đầu muôn tội ác, phạm vào là tiêu tan danh tiết nhục nhã khôn lương. Những phụ nữ con nhà gia giáo lương thiện phải biết giữ gìn danh dự không thể phản bội chồng mà làm chuyện tồi bại. Tội đó rất nặng, hình phạt cũng ngang với bọn cờ bạc. Chốn âm phủ những u hồn kêu khóc thê lương, thảm thiết đều từ đó phát sinh ra. Hôm nay ta dẫn Dương Sinh dạo thăm mười sáu ngục moi tim để nhìn thấy tận mắt lũ đó. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh: Con đã sẵn sàng mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã đến nơi, Dương Sinh mau xuống đài sen.

Dương Sinh: Thưa vâng con xuống . Tình hình âm phủ lần này khác với mọi lần, vong hồn đi lại rất là náo nhiệt, không rõ tại sao?

Tế Phật: Nhân dịp rằm tháng bảy xá tội vong nhân, hai ngày này chốn dương gian nơi nào cũng cúng vong để chẩn tế các tội hồn. Nếu mắc tội nhạ thì tội hồn có thể xuất ngục để nhận lãnh.

Dương Sinh: À thì ra nguyên do là như vậy. Phía trước Ngục Quan ra nghênh tiếp chúng ta.

Ngục Quan: Hoan nghênh hai vị đã tới thăm bản ngục. Bữa nay nhân dịp xá tội vong nhân rằm tháng bảy nên cảnh tượng ồn ào náo nhiệt, xin hai vị chớ bận tâm.

Tế Phật: Vậy xin chớ khách sáo, chúng tôi tới là chỉ để làm phiền Ngục Quan và các vị Tướng Quân, mong tận tình giúp đỡ chúng tôi.

Ngục Quan: Hai vị phụng mệnh Ngọc Đế gia công viết sách để khuyên đời, công đức rất lớn, chúng tôi đâu dám không hết lòng, vậy xin mời hai vại vào trong quan sát sự tình.

Dương Sinh: Xin đa tạ, trong ngục tội hồn kêu rên không dứt.

Tế Phật: Những tội hồn bị giam tại Ngục Moi Tim đều phạm trọng tội, cho nên không được hưởng sự khoan hồng để hưởng những lễ vật cúng vong của dương gian.

Ngục Quan: Bữa nay tôi cho áp giải ra hai tội hồn để họ thuật lại nghiệp quả tiền thân. Các mi hãy nghe ta nói, đây là Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung, hai vị này đã phụng chỉ Đức Ngọc Đế xuống cõi âm ti thu tập tài liệu để viết sách khuyên đời. Bây giờ hai tội hồn hãy mau cung khai tất cả những việc đã làm trên đời cho hai vị nghe.

Tội Hồn: Tuân lệnh, tôi lúc sống lo công tác bên ngoài, luôn luôn bươn chải đó đây để kiếm sống. Tôi thường lấy lữ quán làm nhà, đàn bà lạ làm người quen. Chẳng bao lâu tôi học được thói ham mê cờ bạc, lúc đầu vì hiếu kỳ sau thành thói quen bữa nào không đnáh thì lòng bồn chồn, tay ngứa ngáy. Từ đó tôi trở thành tay anh chị ở các sòng bài, tuy lãnh nhiệm vụ công tác bên ngoài nên tiền lương cũng khá nhưng mà nhiều khi cũng thua cháy túi, cho nên tôi phải chạy tới vay bạn bè. Đời sống gia đình tôi không đoái tưởng tới nữa. Tới năm 43 tuổi có một bữa nhậu say cưỡi xa máy gặp tai nạn mà thác. sau khi chết bị âm binh áp giải xuống địa ngục tôi mới vỡ lẽ ra là bị giảm thọ mất năm năm. Bị sưu tra suốt từ Đệ Nhất Điện tới Đệ Tứ Điện cuối cùng giải giao sang Đệ Ngũ Điện, Minh Vương giận dữ xử tôi mười ba năm tù và đầy tại Ngục Moi Tim này. Hàng ngày trái tim ham đánh bạc của tôi bị cắt đâu đớn không thể nào tả xiết. Tôi mong người đời chớ nên dánh bài vì địa ngục rất kỵ phường cờ bạc. Ngũ Điện Sâm La Vương nếu thấy bọn bài bạc sẽ đánh 100 gậy trước, rồi sau đó mới xét xử . Bọn cờ bạc đôi tay rất cứng vì hàng ngày ngồi ở sòng bài ít hoạt động, Sâm La Vương sai lấy gậy gỗ nện, không những đã nhục nhã mà da thịt lại còn bị bầm dập đớn đau, than khóc thật là thảm thiết, Kính xin Phật Sống Tế Công giải cứu.

Tế Phật: Thủ hạ bọn cờ bạc rất ô tình, người lại còn xin ta cứu giúp nữa ư? Hãy ráng mà chịu tọi, không nên vọng cầu.

Ngục Quan: Mi không được cầu xin bừa bãi . Nếu chưa dứt được cái tâm ham bài bạc mi sẽ còn bị đưa đến địa ngục nướng tay chịu thêm hình phạt. Ai bảo mi lúc sinh tiền ham đánh bạc, để rồi sau khi chết phải chịu sự quả báo này, đừng có oán trời trách người. Tội hồn thứ hai hãy thuật lại những hành vi lúc còn sống coi.

Tội Hồn: Đông người quá, nói ra thật là xấu hổ... Sau khi đã lấy chồng mà bản tính tôi còn dâm đãng cho nên thường lén chồng giao du đám con trai ở quanh vùng. Tôi đã lén lút ăn nằm trước sau cả thảy với năm người con trai mà chồng tôi hoàn toàn không hay biết, cho tới năm tôi 54 tuổi bị mắc bệnh tim mà thác. Hồn bị Tướng Quân Hắc Bạch áp giải tới trước đài gương soi ác nghiệp để chiếu rọi lại những hành vi xấu xa bỉ ổi, tang chứng rành rành, bắt buộc tôi phải nhận lỗi. Sau đó tôi bị giải tới Đệ Ngũ Điện rồi bị tống giam vào Ngục Moi Tim với thời hạn là hai mươi năm. Hằng ngày tim tôi bị cắt thật là đau đớn, bây giờ dù hối cũng không kịp. Kính mong Phật Sống Tế Công xin với Minh Vương giùm để cho tôi được ân xá khỏi khổ.

Tế Phật: Ngươi là thân phụ nữ không giữ đạo phu phụ lại tham dâm, chỉ ham mê hư vinh không chăm chỉ lo làm việc thiện, ta chẳng thể cứu được ngươi.

Ngục Quan: Xin Tế Phật chớ bận tâm. Y thị lúc sinh tiền đã tham dâm, cho nên cái tâm tham dục đó đã bị cắt, đúng là gieo nhân nào gặt quả nấy. Lúc sống đã làm những chuyện xấu xa tội lỗi mà không biết ăn năn. Nếu như sớm biết hối cải ăn năn cầu Phật thì có thể được xá tội. Nhưng đến khi chết vẫn không chịu sửa lỗi thì bây giờ có xin miễn tội cũng không thể được.

Tế Phật: Ngục Quan nói rất hữu lý, những kẻ say mê cờ bạc, ham thích dâm dục nếu biết ăn năn trở lại làm những việc thiện đức ân nghĩa, nguyện với Thánh Tiên Phật phát tâm ấn tống Địa Ngục Du Ký. Dương Sinh mau theo ta trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh . Đa tạ Ngục Quan cùng Tướng Quân đã nồng hậu tiếp đãi chúng tôi, xin cáo biệt.

Ngục Quan: Tướng Quân hãy ra lệnh tập hợp để tiễn chân quý khách.

Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen chuẩn bị trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, xin ân sư trở lại trần gian.

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.


...........................................................


HỒI BA MƯƠI SÁU

DẠO ĐỆ LỤC ĐIỆN BÀN BẠC VỚI BIỆN THÀNH VƯƠNG

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 6 tháng 8 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Nhất niên dung dị lưu Trung thu
Tảo khởi dạ niên mang bất hưu
Bạch pht' thiêm tân nhân dĩ lão
Thương sanh cấp tảo bả tâm tu.

Dịch:

Một năm qua lẹ lại Trung thu
Tỉnh giấc nửa đêm sầu mịt mù
Thân chóng già nua đầu chóng bạc
Người đời mau sớm hương tâm tu.


Tế Phật: Một năm thấm thoát lại đến dịp Trung thu rồi, ngày tháng qua đi như nước chảy, Trung thu năm ngoái quí đường phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, chớp mắt đã nần một năm. Một năm chư sinh đêm ngày vất vả để soạn sách đã lập được kỳ công, đời người ngắn ngủi, cổ nhân có câu: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” (kiép con người mấy ai sống tới bảy mươi tuổi). Trước mắt chúng ta tuy khoa học phát triển nhưng người đời có câu: “Nhân sinh thất thập phương khai thuỷ” (Đời người bắt đầu ở tuổi bảy mươi). Trời sinh ra con người vốn không giới hạn tuổi tác, chỉ vì con người tham dục, tính khí thần bị phá tán quá nhiều cho nên tinh khí sớm bị hư đi. Do đó mà người đời đã tự tìm con đường chết, cho nên khuyên thế nhân sớm tu thân, dưỡng tinh thần thì có thể hưởng được tuổi trời. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti. Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh: Thưa thầy chẳng hay bữa nay mình đi thăm chốn nào?

Tế Phật: Ngũ Điện đã thăm qua rồi, hôm nay chúng ta sẽ đến thăm Lục Điện, con hãy ráng lên tinh thần .

Dương Sinh: Nhiệm vụ dạo âm ti để quan sát tình hình đã hoàn thành một nửa, con cũng cảm thấy yên tâm.

Tế Phật: Bất luận làm việc gì, nếu giữ vững niềm tin ắt sẽ đi tới thành công. Nhiệm vụ dạo âm ti là một nhiệm vụ nặng nề nhưng sẽ hoàn thành một cách tốt đẹp. Mau lên đài sen vì thời giờ eo hẹp .

Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, xin ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã đến nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh: Các quan viên thuộc Đệ Lục Điện đã ở trước mặt. Các vong hồn tụ tập ngoài điện khá đông, chắc là đã tới giờ thăng đường. Minh Vương đang ngồi ghế chánh án tự nhiên tuyên bố rút lui khiến các vong hồn nhốn nháo trố mắt nhìn.

Tế Phật: Biện Thành Vương cai quản Đệ Lục Điện đã thân hành xuóng thềm nghênh tiếp, Dương Sinh mau theo ta đến ra mắt.


Dương Sinh: Thưa tuân lệnh. Xin ra mắt Biện Thành Vương cùng chư vị Tiên Quan. Thưa tôi là môn đê. của Thánh Hiền Đường thuộc Đài Trung tên là Dương Sinh. Thầy trò chúng tôi phụng chỉ viết sách nên hôm nay tới đây thu thập tài liệu cùng bằng chứng để khuyên đời. Vậy kính mong Minh Vương giúp đỡ chúng tôi phương tiện.

Minh Vương: Mau đứng dậy, chớ quá lễ độ. Rất may từ lâu đã nghe Thánh Hiền Đường tích cực phổ biến đạo giáo, công lao khuyên đời rất lớn. Trung Thu năm ngoái bản điện đã tiếp được Ngọc chiếu, biết rõ quý đường sẽ phụng chỉ soạn sách Địa Ngục Du Ký cho nên hôm nay mới tới đây. Xin mời Tế Phật cùng Dương Sinh vào trong nghỉ ngơi.

Tế Phật: Xin đa tạ. Biện Thành Vương tiếp đãi quá ân cần. Dương Sinh, chúng ta mau theo Minh Vương vào trong.

Minh Vương: Tiên quan mau dâng trà tiên mời hai vị.

Tiên Quan: Xin tuân lệnh. Kính mời nhị vị dùng trà.

Minh Vương: Xin Tế Phật và Dương Sinh chớ khách sáo, cứ dùng trà tự nhiên.

Dương Sinh: Xin cảm tạ Minh Vương, thứ trà này thế gian không có, hương vị nó ngọt mát rất thông cổ hạ đàm.

Minh Vương: Thứ trà này chỉ là trà thô thôi. Vật nào hiếm thì quý, cho nên có cảm giác như vậy. Hôm nay hai vị tới thăm tôi rất đổi vui mừng. Thế đạo trần gian chông chênh thật là khó nói, đến đức Ngọc Hoàng lòng cũng rất đổi ưu sầu, bởi vậy đã đặc chỉ cho quí Hiền Đường soạn sách Địa Ngục Du Ký. Người đời không tin là sau khi chết sẽ bị truỵ lạc xuống các ngục ở âm ti để chịu khổ. Bởi vậy mới đặc biệt ra lệnh cho Tế Phật đưa hồn phách Dương Thiện Sinh xuống âm phủ quan sát, để tìm hiểu những kẻ phàm trần sau khi chết xuống âm phủ, họ phải chịu những hình phạt như thế nào. Và đàn cơ tại dương gian do Ngọc Hư đồng tử dùng pháp nhãn truyền chân, đem việc Dương Sinh thăm âm phủ thấy những gì, hình phạt ra sao, dùng đàn cơ giáng bút tả rõ sự thực. Tin rằng cuốn sch' này sau khi xuất bản có thể độ được rất nhiều người. Hiện thời dương gian tin vào khoa học miệt thị quỉ thần, phát sinh giết chóc, gian dâm, trộm cướp. Thế nhân chỉ biết ưa theo vật chất tranh giành lợi lộc, chỉ chực nhắm kẽ hở của luật pháp để tránh né. Họ cho rằng pháp luật sơ hở nên có thể mạo hiểm phạm pháp, do đó xứ nào cũng thấy luân lý bại hoại, đạo đức suy đồi thực rất đáng thương, âu cũng chỉ vì quá tham lam hưởng thụ vật chất mà phát sinh ra những điều bất lương. Ngày nay nhìn thấy tình thế dương gian như vậy tôi rất đau lòng . Phàm những kẻ không tin quỉ thần, nghiệp quả báo ứng nên mới dám ngang nhiên làm loạn, sau khi chết không có một kẻ nào trốn thoát được hình phạt ở địa ngục. Cho nên nói rằng: “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lọng thưa mà không lọt) chính là lẽ đó. Tôi cai quản Lục Điện tên lớn kêu là Đại Địa Ngục, phàm những kẻ đến Đệ Lục Điện để thụ hình đều đã qua Đệ Ngũ Điện chịu thống khổ rồi. Cho nên tên lớn Đại Địa Ngục là chịu hình phạt qua mười sáu tiểu địa ngục. Người đời đã làm thương tỗn lẽ Trời, những kẻ không giữ qui củ đạo đức đã phải chịu những hình phạt quá nặng nề thê thảm. Dương Sinh khi trở lại dương gian nên khuyên người đời tu tâm dưỡng tính, an phận giữ mình. Hôm nay hai vị tới địa ngục quan sát tôi rất hoan nghênh. Những tội hồn tới đây chịu hình phạt không giống nhau, người đời phải biết rõ là phạm vào trường hợp nào phải lo tự xử trước lấy mình. Mời hai vị dùng thêm trà.

Tế Phật: Bữa nay thời giờ đã trễ, chúng tôi xin mạn phép để dành tới ngày khác sẽ trở lại thăm tiếp các ngục.

Minh Vương: Vậy thì hay lắm, hân hoan chờ ngày quí vị trở lại thăm. Ra lệnh văn võ bá quan hàng ngũ nghiệm chỉnh tiễn chào quí khách.

Dương Sinh: Xin đa tạ Minh Vương đã thiết trà tiên cùng ban những lời vàng ngọc vô cùng khích lệ. Thời giờ đã trễ, chúng tôi xin mạn phép cáo từ.

Tế Phật: Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, xin mời ân sư trở lại Hiền Đường.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh lên đài sen, hồn phách nhập thể xác.


...........................................................


HỒI BA MƯƠI BẢY

DẠO ĐỊA NGỤC CẮT THẬN CHO CHUỘT GẬM

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 8 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Canh thâm dạ tịnh nguyệt đương thiên
Đời Lĩnh Dương Sinh hạ cửu tuyền
Phụng chỉ trước thư kinh nhất tại
Độ mê khuyến thế biến tam thiên.

Dịch:

Trăng khuya vằng vặc giữa trời đêm
Hướng dẫn Dương Sinh xuống cửu tuyền
Phụng chỉ trọn năm mong viết sách
Ba ngàn thế giới độ mê lầm.


Tế Phật: Quý đường phụng chỉ viết sách Dịa Ngục Du Ký đến nay đã qua một năm. Ta được vinh dự hướng dẫn thánh bút Dương Thiện Sinh quan sát âm phủ để biết rõ tình hình cùng gặp gỡ các tội hồn để hỏi rõ chứng cớ. Nhiệm vụ thật là lớn lao, đường địa ngục quá gập ghềnh, đi lại thật là vất vả cực khổ. Địa Ngục Du Ký sẽ là bộ đại kỳ thư trong thiên hạ ứng thiên mệnh mà giáng thế, nhân thiện nam tín nữ thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung lãnh chỉ phát huy đạo giáo. Hơn nữa lại có thánh bút Dương Thiện Sinh tinh thần cực kỳ sáng suốt mới hoàn thành nổi nhiệm vụ của Tiên Thánh khiến lòng ta cũng có chút an uỷ. Địa Ngục Du Ký trước tác đến nay đã được hơn nữa bộ, tuy chưa hoàn tất nhưng ta hy vọng chư sinh hãy gắng chịu cực đừng có thễ nải. Một khi sách hoàn thành thì công của Dương Sinh vượt qua tam đại. Nhân giờ dạo thăm âm phủ đã tới, Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Đa tạ ân sư, trải qua một năm cực nhọc, nhờ ơn thầy đã tận tình chỉ giáo, không điểm nào là con không thấu triệt. Con chỉ tiếc là tính con còn non dại cho nên không lĩnh ngộ được hết những điều ân sư dạy dỗ. Kính xin ân sư ban thêm linh quang cho con bởi vì con vừa mới từ Đẩu Nam Cảm Tu Đường gấp rút trở về, tinh thần con mệt mỏi, ân sư có thể ban cho con một viên linh đơn để cho tinh thần con thêm vững mạnh.

Tế Phật: Tuy quá khổ cực, vậy mà con cũng dốc lòng tin tưởng, một lần nữa ta ban thêm cho con một viên linh đơn. Con cũng biết từ khi bắt đầu soạn sách Địa Ngục Du Ký, thân thể của con mỗi ngày một kháng kiện, Tiên Phật ở trong cõi vô hình cũng đã ban cho con rất nhiều sinh lực. Nay ta lại đặc biệt cho con thêm ba viên linh đơn nữa, mau uống đi rồi chuẩn bị dạo âm ti.

Dương Sinh: Muôn phần cảm kích vì ân sư đã hiển hoá giúp đỡ. Con bị đau bao tử nhiều năm, nhưng từ khi phụng chỉ soạn sách tới nay, dần dần không uống thuốc mà khỏi. Ngày hôm nay được ân sư ban thêm linh đơn uống vào tâm thần vô cùng sảng khoái thâm tạ ân sự.

Tế Phật: Thời giờ đã trễ, mau lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân mệnh. Con đã sẵn sàng, mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã đến nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh: Thưa trước mặt là ngục gì? Tại sao lại có tiếng người khóc thảm và tiếng chuột kêu vang?

Tế Phật: Trước mắt là Lục Điện, chốn cai quản mười sáu tiểu địa ngục cắt thận cho chuột gặ. Ngục Quan và các Tướng Quân đã tới, mau tiến lên phía trước chào hỏi.

Dương Sinh: Phải phải! Xin bái kiến Ngục Quan và Tướng Quân. Tôi thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung tên là Dương Sinh, bữa nay theo ân sư đến thăm viếng quí ngục, xin được chỉ giáo cùng giúp đỡ phương tiện.

Ngục Quan: Hãy đứng lên, chớ quá lễ độ. Bản ngục đã nhận được chỉ dụ của Minh Vương nên biết Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh sẽ đến tham quan để soạn sách . Xin theo chúng tôi vào trong ngục.

Dương Sinh: Đa tạ sự tiếp đãi ân cần của Ngục Quan. Trong ngục đầy chuột già nhắm tội hồn tấn công, các tội hồn thì lăn lộn dưới đất, hai tay không chống cự lại với chuột, chỉ nghe kêu khóc một cách điên cuồng, chẳng biết họ đã phạm phải những tội gì?

Ngục Quan: Ngục này toàn là tội nhân phái nam, lúc sống tham dâm hiếu sắc, hoặc phạm vào thanh qui giới luật của sắc quỉ . Sanh tiền tham dâm, phá hoại đạo đức, cho nên để trừng phạt phải cắt đứt âm cùng dương vật. Đàn chuột lớn cắn nhai như vậy là ý muốn trừ cho tuyệt nọc dâm dục.

Tế Phật: Hình phạt này thật là đau đớn vô cùng. Tục ngữ có câu: “Trảm thảo bất trừ căn, xuân phong xuy hựu sinh” (Trừ cỏ không trừ tận rễ, gió xuân thổi nó lại sinh) cho nên bọn này vì ham thích gió xuân do đó phải chịu hình phạt này vậy.

Ngục Quan: Tôi sai áp giải mấy tội hồn lại đay để nó thuật lại những hành vì bất lương lúc còn tại thế khiến phải tới đây chịu hình phạt.

Dương Sinh: Tốt lắm. Những tội hồn kia hai tay bị trói, gặp lũ chuột tấn công, có kẻ thì kêu khóc, có kẻ thì lăn lộn giẫy giụa, còn lũ chuột lại dữ như mèo, xem ra hung hãn vô cùng, chúng cắn người như mèo ăn chuột vậy.

Tế Phật: Cảnh này chính là cảnh chuột già cắn bao bố ăn hạt nhân vậy. Nhìn cảnh máu tươi chảy lênh láng thật đáng thương cho chúng sinh, chỉ vì ham hưởng thụ khoái lạc nhất thời để đến nỗi bây giờ phải gánh chịu thảm cảnh này.

Ngục Quan: Tôi đã dẫn ra đây hai tội hồn. Nay hai tội hồn kia, đây là Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung, hai vị lãnh sắc chỉ của Ngọc Đế xuống âm phủ quan sát để viết sách, các ngươi mau thuật lại những hành vi ác độc lúc còn sinh tiền để làm tài liệu viết vào sách Địa Ngục Du Ký hầu khuyên răn người đời.

Tội Hồn: Tôi lúc sinh tiền đã nhập thánh môn tu đạo, trì trai giữ gới nhất định không kết hôn để khỏi sinh con đẻ cái. Sau vì sinh tình nên không giữ nổi, đã cùng một nữ đồng đạo phá bỏ giới luật, luyến ái lẫn nhau uổng phí cả tấc lòng thành tu đạo. Sau khi chết không những tới được thiên đường mà còn bị quỉ vô thường Hắc Bạch áp giải xuống âm phủ để đài gương soi ác nghiệp chiếu tọi lại những hành vi xấu xa thuở trước khiến không còn chối cãi được. Sau đó tôi bị chuyển giao qua Lục Điện, Biện Thành Vương cả giận mắng tôi là thân đã nhập cửa thánh biết pháp mà lại còn phạm pháp thành tội nặng hơn một bặc, cho nên tôi bị xử đày ở địa ngục chuột cắn thận. Đầu tiên tôi bị âm sai cắt mất sinh thực khí, sau đó bị trói và quăng xuống đất cho chuột cắn. hàng ngày tâm trí điên loạn đua khổ vô cùng, tiếc rằng chỉ vì sai lầm một bước mà thành cái hận nghìn đời. Mong rằng những ai đã nhập cửa thánh ở cõi thế gian nên giữ Thánh qui, nếu không sau khi chết chẳng những không được công quả vì mà còn bị đền tội.

Tế Phật: Tục ngữ viết: “Trì trai cẩn trí đỗ tề vi giới” (Đã giữ trai giới tu hành thì phải cẩn thận xác thịt) chính là lẽ đó. Trước không lo tu thanh tịnh khiến hiện tại âm binh cùng chuột già lo tu chỉnh giùm người để cho người thanh tịnh lại, quả là tội báo tự lãnh.

Ngục Quan: Tội hồn thứ hai mau thuật lại nhừng hành vi lúc còn sống.

Tội Hồn: Khi tôi còn là một học sinh trung học đệ nhất cấp, bị bạn xấu dẫn dụ tới chốn ăn chơi, sau này có tiền tôi lại đến đó tiêu khiển. Sau cùng tôi rủ lũ bạn tới đó phiêu lưu một trận gió mưa cùng gái giang hồ, khiến có kẻ bị bệnh phong tình. Bởi phạm phải lỗi đó nên lúc chết bị áp giải tới đây chịu tội, thống khổ không cách nào tả hết. Lúc sống chơi bời khi chết phải tới đây tháng năm chịu nạn, thật là hối hận cũng không kịp nữa.

Ngục Quan: Thiếu thời không chịu chăm lo học hành lại ham trò vầy hoa nghịch liễu, chưa kết hôn mà đã dám coi thường trinh tiết chẳng gắng giữ gìn. Rủ rê bạn bè vào đường truỵ lạc, gốc dâm đã gây nên nghiệp báo cho nên sau khi chết bị đày xuống ngục này là lẽ đương nhiên.

Dương Sinh: Thấy bọn họ thật đều đáng thương. Trong ngục giam tội hồn quá đông, không rõ họ phạm những tội gì mà phải tới đây thụ hình?

Ngục Quan: Bản ngục mỗi ngày có hạng ngàn tội hồn mới, cho nên phạm vi các tội ở ngục này rất đông. Phàm những kẻ dan díu với kỹ nữ, chưa kết hôn mà đã đến nhà chứa phá trinh, kiếm nơi kín đáo hành lạc; đã kết hôn rồi mà còn phạm tội gian dâm, đã vào cửa Phật cửa Thánh mà còn phạm dâm, tội loạn luân, bề hội đồng. Gốc dâm này quá sâu, tất cả đều phải tới đây thụ hình.

Tế Phật: Ta khuyên người đời chớ bao giờ phạm vào tội dâm. Đó là tội rất nặng, nhất là kẻ đã tu đạo mà không đề cao cảnh giác lỡ phạm vào tội dâm thì không thể tha thứ được. Chẳng những bị đày ở Ngục Moi Tim thuộc Đệ Ngũ Điện mà còn bị lần lượt chuyển giao qua các ngục khác chịu thêm hình phạt. Nhưng Trời đất vốn hiếu sinh mở lối, một khi đọc sách Địa Ngục Du Ký rồi mà quyết tâm sám hối sửa đổi lỗi lầm, ẩn tống sách để khuyên đời đừng phạm vào những tội đó nữa, thời đức Ngọc Đế sẽ có chỉ dụ giảm khinh hoặc miễn hẳn tội cho. Vì thời giờ đã trễ, Dương Sinh mau chuẩn bị trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan và chư vị Tướng Quân đã ân cần tiếp đãi, chúng tôi xin cáo từ.

Ngục Quan: Các vị Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn khách.

Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen chuẩn bị trở lại Hiền Đường.

Dương Sinh: Con đã sửa soạn xong, mời ân sư trở lại trần gian.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.


..............................................................


HỒI BA MƯƠI TÁM

DẠO ĐỊA NGỤC DẠY LÁI XE

Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 6 tháng 9 năm Đinh Tỵ (1977)


Thơ:

Xiển giáo vô từ thế lộ dao
Hạnh Đàn thánh hội hỷ kim tiêu
Nhân văn hội tuỵ trung châu địa
Đạo khí đằng đằng xán ngọc tiêu.

Dịch:

Khai giáo đường xa há ngại ngần
Đêm vui vườn Khổng họp văn nhân
Thần tiên chốn cũ giờ đông đảo
Ánh đạo trời cao toả ngập tràn.


Tế Phật: Hè đi thu tới lòng lạnh lẽo, người may thêm áo, chim mọc thêm lông. Bốn mùa thay đổi không ngừng. Nhớ lại thuở nào còn thơ ấu ngày nay con cháu đầy nhà, mắt mờ tay run đi đứng chậm chạp không vững. Tiếc ngày xanh và tuổi hoa niên đã hết, lúc này hồi tưởng lại quá khứ thì thấy kiếp sống của con người chẳng khác gì một giấc mộng. Khuyên người đời hãy lo níu lấy thời gian, một khắc trôi qua là một tấc sinh mạng. Sớm nhập thánh môn để mà tu thân cầu đạo, ngoài xã hội làm một người dân lương thiện, trong cửa Thánh là một đệ tử hiền lành. Thời sau khi chết xa lánh được địa ngục, giả thử có phải ghé qua thì cũng chỉ như là người khách, không phải chịu thụ hình bị tội khổ cực. Hôm nay đã tới giờ dạo âm ti, Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh: Thưa ân sư, hôm nay sẽ mình tới ngục nào?

Tế Phật: Ta chưa nói vội, chút nữa sẽ biết.

Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, mời ân sư khởi hành...

Tế Phật: Đã đến nơi, Dương Sinh mau xuóng đài sen.

Dương Sinh: Thưa ân sư, tại sao ân sư lại đưa con đến sườn núi này? Tiếng kêu từ phía trước vọng tới giống như là có kẻ bị giết chóc hay bị đánh đập. Ngã đường đằng trước âm binh lại đang áp giải các tội hồn đi tới, mình theo họ xem ra sao?

Tế Phật: Cuộc hành trình bữa nay của chúng ta chỉ cốt để quan sát địa ngục ở sườn núi phía trước, ta hãy mau theo cho kịp đám âm binh.

Dương Sinh: Mình đã theo kịp âm binh, họ quay lại chào kìa. Không rõ những tội hồn này đã phạm phải tội gì mà bữa nay bị giải đi hành tội.

Tế Phật: Những tội hồn này đa số cỡi xe máy hoặc lái xe hơi, họ được gọi là kỵ sĩ. Vì lúc sống phạm tai nạn xe cộ làm chết người cho nên sau khi chết bị đày xuống địa ngục này chịu tội.

Dương Sinh: Lái xe hơi cỡi xe máy mà đụng chết người ở trần gian đã giải quyết rồi mà cũng chưa xong được hay sao?

Tế Phật: Làm hại mạng người đương nhiên bị luật ở cõi âm xử phạt. Đã đến cửa ngục, muốn rõ con hãy chờ, lát nữa hỏi Ngục Quan sẽ tỏ.

Dương Sinh: Cửa ngục hiện ra trước mắt, hai bên cửa có lính canh nghiêm ngặt. Trên cửa có viết năm chữ "Địa Ngục Dạy Lái Xe". Ngục Quan cùng các vị Tướng Quân đều đã thân hành ra trước cửa nghênh tiếp chúng ta.

Tế Phật: Dương Sinh mau tới làm lễ ra mắt.

Dương Sinh: Kính chào ra mắt Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân. Bữa nay tôi và ân sư Tế Phật phụng mệnh đến quí ngục tham quan, sưu tầm tài liệu để khuyên đời, mong Ngục Quan hãy giúp đỡ phương tiện để có thêm bằng chứng.

Ngục Quan: Dương Thiện SInh chớ quá lễ độ, mời hai vị theo chúng tôi vào trong tham quan.

Dương Sinh: Thưa Ngục Quan, quí ngục đây thuộc sự cai quản của điện nào?

Ngục Quan: Phàm những tai nạn xe cộ làm thiệt hại nhân mạng, hoặc trọng thương khiến cho người ta trở thành tàn phế thì bất luậ là chủ xe máy, xe hơi hay xe đạp, sau khi chết đều phải tới đây để chịu quả báo. Xin mời quí vị theo tôi vào trong ngục quan.

Tế Phật: Đa tạ.

Dương Sinh: Các tội hồn tụ tập đông đảo bên sườn núi, trên con đường ghồ ghề lầy lội họ đang đẩy những chiếc xe giống như kiểu xe dùng sức người kéo đẩy thời xưa. Trên xe chất đầy đá xanh từ trên núi đổ xuống. Con đường chỉ rộng đủ cho hai xe qua lại, lỡ quá đà liền đâm xuống vực thẳm hai bên. Vì xe chở nặng lại không có thắng, tội hồn phải dùng hai chân ghìm lại, phải bước rất chậm để khi lỡ trớn còn kịp thắng xe. Hai chân tội hồn rách toang máu chảy tràn mặt đất. Có kẻ không cẩn thận xe lật cũng bị văng xuống vực, kẻ đỡ không nổi trợt chân té bị xe đè kêu thảm thiết. Có kẻ bị xe cán máu chảy loang trên mặt đật. Những loại hình phạt này thật là tân kỳ, nhưng cũng thảm thiết quá mức.

Tế Phật: Trên đời lái xe nếu không cẩn thận, lỡ xảy ra tai nạn làm hại tính mạng lại bị tai nạn, do đó phải đến đây để chịu khổ, không cách chi tránh khỏi nhân quả báo ứng.

Ngục Quan: Tôi đã ra lệnh cho mấy tội hồn thuật lại những tai nạn đã gây lúc còn sống như thế nào cho Dương Thiện Sinh nghe.

Dương Sinh: Xin đa tạ Ngục Quan.

Ngục Quan: Các tội hồn đã tới, bọn mi mau thuật rõ lại cho Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh nghe những hành vi lúc còn sống để khi trở lại trần gian Dương Sinh còn khuyến cáo cho người đời rõ.

Tội Hồn: Lúc còn sống tôi là tài xế của một hãng chuyên chở công cộng, có lần vừa tới khúc quanh, một bé gái phóng qua, tôi thắng không kịp cán lên em bé. Trong suốt quãng đời lái xe tuy tôi không làm hại người nhưng sau khi gây ra tai nạn này hãng xe bị tổn hại cho nên công ty đã quyết định sa thải tôi. Sau khi chết tôi bị xử tù một năm tại ngục dạy lái xe này. Ở đây hàng ngày phải tập lái xe, từ trên núi lái xuống, hai chân phải thay thắng để điều khiển xe, phải cố gắng hết sức mình mới có thể duy trì được . Nhưng mỗi ngày phải đi lên xuống hàng trăm lần do đó tinh thần và sức khoẻ đều klkiệt hết, hai chân lại còn lỡ loét thối tha đau đớn vô cùng.

Ngục Quan: Tôi hồn thứ hai mau thuật lại những hành vi lái xe lúc còn sống của mi.

Tội Hồn: Khi còn sống tôi hành nghề lái xe rước kháh để làm kế sinh nhai. Có một đêm cùng bạn bè uống rượu. Sau khi nhậu say hai mắt đã hoa lại còn phóng xe quá tốc lực, qua mặt ẩu xe khác khiến cán chết một người khách bộ hành. Vì gây tai nạn giết người tôi đã phải bồi thường tiền bạc và ở tù. Sau khi chết Diêm Vương dạy rằng lái xe mà còn say rượu, xem mạng sống con người như trò chơi, do đó ra lệnh đày tôi ba năm tại Địa Ngục Dạy Lái Xe. Hàng ngày tôi phải chịu cảnh xe cán, xe đè, xe đụng hai chân sưng húp đau đớn vô cùng. Thân thể chịu đựng không thấu gầy như cây sậy. Hy vọng những ai lái xe ở thế gian nên đề cao cảnh giác không bao giờ được lái xe trong lúc say rượu để tránh gây ra ta nạn. Nếu gây ra tai nạn thì sau này xuống địa ngục không những không có rượu uống mà hai chân còn chảy máu đau đớn vô cùng.

Ngục Quan: Tội hônthứ ba mau thuật lại những hành vi gây ra tai nạn lúc còn tại thế.

Tội Hồn: Lúc còn sống tôi hành nghề buôn bán, hàng ngày cỡi xe giao hàng, thường chạy xe quá nhanh không tuân theo luật lệ giao thông, cho nên có một bữa đụng phải khách bộ hành và tôi cũng bị thương. Hai bên đều được đưa tới y viện chữa trị, tôi bị gẫy xương chân còn người kia bị đứt dây thần kinh ở đầu. Tôi điều trị tới nữa năm mới khỏi, còn người kia trở thành kẻ đãng trí, nên tôi phải bồi thường một ngân khoản rất lớn. Sau khi chết vì tôi gây ra tai nạn lưu thông này mà tôi bị áp giải tới Đệ Lục Điện. Biện Thành Vương phán đày tôi tại ngục này ba năm, chịu hành phạt đắng cay khổ cực.

Ngục Quan: Bữa nay ba tội hồn đã làm nhân chứng, phàm những kẻ lái xe ở trần gian nên lấy đó làm gương, phải gắng lái xe cho cẩn thận thì người và xe đều bình an. Sau khi chết được miễn cái cảnh khổ tới bản ngục thụ hình. Nếu như không cố ý làm hại tính mạng hay gây tật nguyền cho kẻ khác thì còn nhẹ một chút. Trường hợp uống rượu chay xe quá tốc độ, không tuân theo luật lệ lưu thông coi thường tính mạng người khác thì khi gây ra tai nạn rồi nạn nhân sống hay chết không cần biết, sau khi thác xuống đây đều bị xử tội. Cho nên khuyên người đời sau khi gây ra tai nạn chớ bao giờ trốn tránh nên chịu trách nhiệm rõ ràng, phải giữ đúng đạo nghĩa thì cái tội có thể giảm nhẹ được đôi phần.

Tế Phật: Địa Ngục dạy lái xe này là trại tù mới thiết lập, cũng giống như những trường dạy lái xe ở dương gian vậy. Tội hồn tới đây nhất nhất đều phải tuân theo trật tự lớp lang, không dám vượt quá tốc độ, nếu sai lầm một chút cũng khó tránh khỏi tai nạn. Vì vậy cảnh cáo những kẻ lái xe nên hết sức lưu tâm, coi mạng người là của Trời, không được uống rượu say rồi lái xe quá tốc lực. Nếu không giữ đúng luật, sau khi chết đến địa ngục này phải chịu cực hình, bấy giờ mới thấy khổ. Hôm nay thời giờ đã trễ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền Đường. Đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã chỉ giáo tường tận.

Dương Sinh: Xin đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã giúp đỡ phương tiện. Chúng tôi xin cáo từ.

Ngục Quan: Không có chi, xin hai vị cứ tự nhiên. Lệnh Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề tiễn khách.

Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, xin ân sư trở lại Hiền Đường.

Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh mau xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.


Địa Ngục Du Ký (hồi 39 - hết)