Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Pháp Quốc


Bủu Minh Ðàn.Trang Web Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí. do Trương Ngọc An thực hiện  

ĐỨC LÃO TỬ VÀ CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ 

Hôm nay, nhờ lòng ưu ái của quí vị trong ban lãnh đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam mà tôi được hân hạnh đến đây thuyết trình cùng quí vị đề tài:

«ĐỨC LÃO TỬ VÀ CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH»

Cho nên, lời nói đầu tiên của tôi là xin chân thành cảm tạ quí vị Đạo Trưởng trong ban lãnh đạo Cơ Quan. Tôi cũng xin quí liệt vị trong cử tọa hiện diện nhận nơi đây lời chào thành kính chân thành và lòng kính mến của tôi.

Có thể bài thuyết trình nầy sẽ chiếm thêm nhiều phút ngoài giờ đã qui định. Xin cáo lỗi trước với quí vị.

Thưa Quí vị,

Đến đây, trình bày đề tài nầy cùng quí vị, tôi đã phạm lỗi đánh trống qua cửa nhà sấm, vì tôi biết, có nhiều vị nơi đây chuyên khảo về Lão giáo, tu theo Lão giáo. Nhưng sở dĩ tôi dám đề cập tới đề tài nói trên, là vì tôi nhớ lại lời của Sử gia Tư Mã Thiên thuật lại lời đức Khổng nhận định về đức Lão Tử như sau: «Con chim, ta biết nó có thể bay, con cá, ta biết nó có thể lội, con thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy, thời có thể chăng dò; lội, thời có thể chăng lưới; bay, thời có thể bắn tên; đến như rồng, thời ta không thể biết: Nó cưỡi mây mà lên trời. Hôm nay ta gặp Lão Tử, Ngài thực là rồng vậy.»

Và tôi nhớ lại sách xưa bàn về rồng như sau: «Rồng có thể tối hay sáng, nhỏ hay to, ngắn hay dài. Xuân phân bay bổng lên trời, Thu phân lặn sâu đáy vực.»

Như vậy, tức là rồng thiên biến vạn hóa, tức là đức Lão Tử thiên biến vạn hóa. Đã thiên biến vạn hóa, thì chúng ta khó có được một cái nhìn toàn bích về Ngài. Quí vị cùng tôi, chúng ta đều được mục kích cái thiên biến vạn hóa ấy, nhưng mỗi người chúng ta chỉ nhìn thấy một khía cạnh. Tôi hôm nay mạo muội đem trình bày những khía cạnh, những nhãn quan của tôi về Lão Tử, chỉ cốt mong là để làm giàu thêm cho những khía cạnh, những nhãn quan mà quí vị đã có về đức Lão Tử, chỉ vậy thôi.

Trong bài thuyết trình này, tôi sẽ lần lượt trình bày:

 

I. ĐỨC LÃO TỬ LÀ AI?

Với những phụ tiết:

1. Đức Lão Tử qua văn liệu và niềm tín ngưỡng dân gian

2. Nhận định và giải thích các quan điểm trên

3. Ít nhiều nhận định riêng tư về đức Lão Tử

II. CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH CỦA ĐỨC LÃO TỬ

Với những phụ tiết:

1. Thế nào là con đường huyền nhiệm

2. Những giai đoạn, những chặng đường trên lộ trình đó

III. KẾT LUẬN

PHỤ LỤC

 

I. ĐỨC LÃO TỬ LÀ AI?

1. Đức Lão Tử qua văn liệu và tín ngưỡng dân gian

Tiểu sử đức Lão Tử thật ra rất mơ hồ ẩn ước, trong đó thực tế xen lẫn với huyền thoại, nên khó mà có được một ý niệm chính xác.

a. Có người cho rằng Lão Tử sinh ra trước Khổng tử, và đã có lần gặp đức Khổng. Cũng có những học giả dựa vào Tư Mã Thiên và Chiến quốc sách, lại cho rằng Ngài sinh sau Đức Khổng và đã sống vào khoảng những năm 300 tcn.

b. Trang Tử Nam Hoa Kinh, chương 3 - Dưỡng sinh chủ, cho rằng đức Lão Tử đã chết.

c. Học giả Henri Doré, dựa vào sách Phật tổ thông tải đã toán ra rằng: Đức Lão sinh năm 584 gặp đức Khổng năm 526 (tức là năm Ất Hợi, năm Cảnh Vương thứ 19) và mất năm năm sau khi ngài 84 tuổi, tức là năm Kỷ Mão tức tây lịch 500 tcn.

d. Tư Mã Thiên cho rằng, sau khi rời ải Hàm Cốc, không còn biết hành tung Ngài ra sao.

e. Tư Mã Thiên cho rằng: Đức Lão Tử cũng là một người như ai, có vợ, có con. Con Ngài tên Tông làm tướng nước Ngụy ở xứ Đoạn Can. Tư Mã Thiên kể danh tính con cháu đức Lão Tử đến 11 đời, tức là đến khoảng đời Tư Mã Thiên, để cho thấy rằng những lời ghi chép của ông về đức Lão Tử là chính xác.

g. Biên Thiều, tác giả Lão Tử minh (tức là bia nói về đức Lão) thời Hán Văn đế (năm 165 Công Nguyên) đã ghi rằng: đối với dân chúng, Lão Tử đã có từ muôn kiếp. Như vậy Ngài là Người Trời.

h. Hoá Hồ kinh, do Vương Phù viết vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 (đời vua Hán Huệ đế 290-306), cho rằng Lão Tử sau khi rời Hàm Cốc, đã đi về các nước rợ vùng Tarim, rồi sang Ấn Độ để dạy đạo cho đức Phật. Sách còn chủ trương rằng: đức Phật Thích Ca chính là hậu thân hay đồ đệ của đức Lão. Quyển sách này đã gây nên không biết bao nhiêu là cuộc bút chiến, khẩu chiến giữa các Phật tử và các đạo sĩ suốt các đời Lương (năm 520 Vũ Vương thời Lương), đời Đường trong các đời vua Cao Tông (668) và Vũ Hậu (696), thời Nguyên đời Mông Ca (1252) và Nguyên Thế tổ (1280-1294) – (Xem Léon Wieger, Textes historiques, p.1420).

i. Biến Hoá kinh, viết vào khoảng năm 612 sau CN (thời Tùy Dạng Đế) cho rằng Lão Tử chẳng những có từ muôn thuở, mà Ngài chính là Thượng Đế. Ngài đã giáng trần nhiều lần, để cứu độ muôn dân.

k. Khảo thư tịch đạo Lão, ta thấy dân gian tin rằng đức Lão Tử là một trong 3 ngôi Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ba ngôi đó là:

- Nguyên Thủy Thiên tôn, hay Thiên Bảo quân hay Ngọc Hoàng ở cung Ngọc Thanh.

- Linh Bảo Thiên tôn, hay Linh Bảo quân ở cung Thượng Thanh.

- Thần Bảo Thiên tôn, hay Lý Lão Quân hay Lão Tử ở cung Thái Thanh.

Ba Ngôi tuy danh hiệu khác nhau, nhưng đồng một Bản Thể.

1. Sách Thăng Huyền kinh (viết vào khoảng thể kỷ 3 hay 4 CN) cũng cho rằng: tuy gọi là Ba Ngôi nhưng thực ra vẫn là Một Vị.

2. Khảo tín ngưỡng dân gian, thư tịch đạo Lão, khảo các đàn cơ, thánh giáo Cao Đài, và thư tịch Cao Đài, ta thấy dân chúng xưa nay thường coi đức Lão Tử là đức Thái Thượng Lão Quân giáng trần. Mà đức Thái Thượng Lão Quân theo danh từ Lão giáo, chính là Thượng Đế. Tiếp theo đây, tôi sẽ dùng thư tịch Lão giáo, Cao Đài giáo để chứng minh 2 điểm rất là then chốt trong Cao Đài giáo:

1. Thái Thượng Lão Quân là Thượng đế.

2. Lão Tử chính là đức Thái Thượng Lão Quân phân tánh giáng phàm.

Hai điểm này có lẽ cũng sẽ đáp ứng lại được phần nào những mong đợi của tín hữu Cao Đài nơi thuyết trình viên ngày lễ vía đức Thái Thượng đạo quân hôm nay.

1. Thái Thượng Lão quân là Thượng đế

Khảo thư tịch Đạo Lão, ví dụ như quyển Tính Mệnh khuê chỉ, hay quyển Huỳnh Đình nội cảnh, do Tử Hà chú giải, ta sẽ thấy những danh từ khác nhau như:

- Nguyên Thủy Tổ Khí,

- Vũ trụ chi tể,

- Huyền Tẫn chi môn,

- Thiên Địa linh căn.

- Tiên Thiên nhất khí,

- Tiên Thiên nhất khí Thái Thượng Lão Quân,

- Thái Thượng Lão Quân,

- Lão Quân,

- Lão Quân nhất khí,

Đó đều là những danh xưng khác nhau để chỉ Thượng Đế: hoặc Thượng Đế vô ngã (Dieu impersonnel), hoặc Thượng Đế hữu ngã (Dieu personnel), hoặc Thượng Đế vô ngã - hữu ngã tương dung (Dieu à la fois impersonnel et personnel).

Phân tách bốn chữ Thái Thượng Lão Quân, ta thấy:

- Thái Thượng rất cao, hay tối cao. Đấng Rất Cao chính là danh từ mà Âu Châu hiện nay dùng để chỉ Thượng Đế (Le Très Haut).

- Lão Quân, là vị Vua già. Có trước đất trời, làm chủ tể quần sinh, mà gọi là Vua giàLão Quân, thì chẳng xứng đáng hay sao?

Khảo thư tịch Cao Đài, ta thấy Thượng Đế, tự xưng là Thầy, Thượng Đế ở cung Đâu Xuất. Thế mà đức Thái Thượng Đạo Tổ cũng có khi xưng mình là Thầy, từ cung Đâu Suất giáng đàn. Ví dụ trong quyển Thượng Thừa Chân Pháp, Hỏa Diệm Hồng Liên do Cao Minh Quang, Trường Chân Đạo, xuất bản năm 1969, nơi tr. 242, trong bài đàn cơ Tí thời ngày 15/2 năm Đinh Mùi 1967, tức cũng là ngày thánh đản đức Thái Thượng Lão quân, hay Lý Lão Tổ mà ta mừng hôm nay, có bài thơ bát cú, với 8 chữ khoán thủ là: ĐẠO TỔ THÁI THƯỢNG GIÁNG CUNG ĐÂU XUẤT, như sau:

ĐẠO pháp hoằng khai độ vạn linh,

TỔ quang chiếu lộ bóng không hình.

THÁI dương chiếu sáng càn khôn định,

THƯỢNG hạ âm dương tượng lý tình.

GIÁNG điển thanh thiên truyền diệu lý,

CUNG trời tá thế luyện thông minh.

ĐÂU ngôi ứng hiện, Thầy phân tánh,

XUẤT nhập trò tu mấy bộ kinh.

Và một bài trường thi, trong đó có 4 câu đầu như sau:

Ngôi Đâu Xuất, Thượng Tôn Thầy giáng,

Cảnh Tiên Cung trước án giờ đây;

Thái Thượng Đạo TổThầy,

Mở khai quan khiếu đủ đầy ánh linh…

Cao Đài có bài kinh Tiên Giáo chí tâm qui mạng lễ. Một phần của kinh ấy như sau:

Tiên thiên khí hóa,                      

Thái Thượng đạo quân,              

Thánh bất khả tri,                      

Công bất khả nghị.                     

Vô vi cư Thái cực chi tiền,         

Hữu thủy siêu quần chân chi thượng.

Diệu Hóa Tam thanh.                     

Đức hoán hư linh,                          

Pháp siêu quần thánh.                

Nhị nguyệt thập ngũ,                  

Phân tánh giáng sanh,               

Nhất thân ức vạn,                          

Diệu huyền thần biến,                     

Tử khí Đông lai,                                 

Quảng truyền Đạo Đức…       

Tôi thấy kinh này rất quan trọng về phương diện giáo lý Cao Đài:

Phần trên từ câu: «Tiên thiên khí hóa…» đến câu: «Pháp siêu quần thánh» chứng minh Thái Thượng đạo quân, hay Thái Thượng Lão Quân chính là Thượng Đế.

Nếu không phải Thượng Đế sao dám nói là:

- Vô vi có trước Ngôi Thái cực.

- Hữu thủy, siêu xuất quần chân?

Nếu không phải là Thượng Đế, thì sao tự xưng là:

- Một khí Nguyên thủy,

- Diệu hóa Tam Thanh.

- Đức của mình hoán chuyển được hư linh,

- Pháp của mình vượt trội muôn thần vạn thánh.

Nếu không phải Thượng Đế, sao lại nói được:

- Nhất thân mà hóa ra được thành muôn ức,

- Biến hóa diệu huyền.

Vả chăng, trong sách Lao-Tse et le Taoisme (Lão Tử và Lão giáo) của L.M. Henri Doré, nơi chương: Vũ trụ luận của Lão giáo, có đoạn sau: «Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn, trong khi giải thích Đạo tạng cho chúng thần, đã kể lại sự khởi nguyên của vạn hữu như sau: Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn, đấng huyền nguyên vô thủy, đã dùng khí mình mà sinh ra Tam thanh và chúng thần.»

- Còn nơi chương I của Huỳnh Đình nội cảnh, do Tử Hà chân nhân giải, có lời chú giải về Tam thanh như sau:

«Tam thanh đều là một Khí hóa ra, chia thành: Tam Thiên, Tam Cảnh, Tam Bảo, Tam Nguyên, Tam quân:

(1) Ngọc Thanh Thánh cảnh, Nguyên thủy Thiên Bảo quân; (2) Thượng Thanh Chân cảnh, Ngọc thần Linh Bảo quân; (3) Thái Thanh Tiên cảnh, Đại Đức Thân Bảo quân…

- Sách Cửu Thiên sinh thần khí cho rằng: «Tam hiệu tuy khác nhau, nhưng cùng một Bản Thể.»

- Sách Đỗng Chương cho rằng: «Lão Quân nhất khí hóa Tam thanh…»

- Sách Thái Thượng Đỗng Huyền vô lượng độ nhân thượng phẩm kinh bàn rằng: «Lão Quân nhất khí đã hóa sinh chư thiên, đã khai minh ra Tam cảnh. Lão Quân tự sinh nên không tiên tổ. Ngài lấy Đạo làm thân thể mình. Lão Quân là Thủy tổ Đạo khí, là nguồn gốc vạn hóa.»

So sánh các kinh sách trên, ta thấy:

- Thái Thượng Lão Quân sinh Tam Thanh và vạn hữu. (Kinh Tiên giáo, qui tâm, chí mạng lễ)

- Nguyên Thủy Thiên Tôn sinh Tam Thanh và vạn hữu. (Lao-Tse et le Taoisme)

- Tiên Thiên nhất khí sinh Tam Thanh và vạn hữu.

- Lão Quân sinh Tam Thanh và vạn hữu. (Huỳnh Đình nội cảnh, Tử Hà chú)

Ta dễ dàng đi đến kết luận: Thái Thượng Lão Quân Nguyên Thủy Thiên Tôn, Lão quân, Tiên Thiên nhất khí.

Mà thực ra cũng phải tìm đâu xa để chứng minh. Đàn cơ Cao Đài đã có lần long trọng tuyên xưng: «Thái Thượng Lão Quân chính là Thượng đế.» Bài Thánh giáo giáng cơ đó là:

«Nhiên Đăng Cổ Phật thị ngã,    

Thích Ca Mâu Ni thị ngã,            

Thái Thượng Nguyên Thủy thị ngã,

Kim viết Cao Đài.»

2. Đức Lão Tử chính là

đức Thái Thượng Lão Quân phân tính giáng phàm

Nơi đây chúng ta cũng nên ghi nhận sự khác biệt rất xa nhau về từ ngữ.

- Nói rằng đức Thái Thượng Lão Quân giáng phàm làm đức Lão Tử thì khác.

- Nói rằng Ngài phân tánh, phân thân để giáng phàm mặc hình hài đức Lão Tử thì khác.

Hai đàng rộng hẹp hết sức khác nhau… Là một nhà sưu khảo, tôi chỉ biết thâu lượm tài liệu liên quan đến vấn đề nay, còn sự khai thác là tùy quyền tùy ý quí vị.

Bài kinh Tiên Giáo chí tâm qui mạng lễ ghi rõ rằng:

Nhị nguyệt thập ngũ              

Phân tánh giáng sinh            

Nhất thân ức vạn                    

Diệu huyền thần biến            

Tử khí Đông lai                       

Quảng truyền Đạo đức…      

Đạo Trưởng Huệ Lương, trong quyển Đạo Đạo Tam Kỳ Phổ Độ; giải thích đoạn trên rằng: «Đời Châu Mục Vương năm thứ 52, ngày rằm chia tánh giáng sanh…»

Trong quyển Tiểu sử Ngũ giáo thánh nhân, Tam trấn và đức Khương Thái Công của Đạo Trưởng Huệ Lương xuất bản năm 1964 nơi trang 25, ta thấy ghi: «Trong quyển Thanh Tĩnh kinh, công nghiệp của Đức Thái Thượng Lão Quân chẳng phải chỉ có một kiếp Ngài lâm phàm lấy tên là Lão Tử mà thôi đâu. Ngài thiên biến vạn hóa lâm phàm nhiều kiếp, kể không xiết. Từ đời hỗn độn sơ khai cho tới bây giờ, không có đời nào mà Ngài không hạ thế…»

Nhưng đến khi tôi đọc các bài thơ do Cơ bút, thì không thấy bài nào nói lên được rằng Lão Tử là phân thân của đức Thái Thượng, mà chỉ toàn thấy đồng hóa đức Thái Thượng với đức Lão Tử. Nếu có chư vị nào có được bài Cơ bút nào, bài thi văn nào của Cao Đài xác minh thêm được rằng Lão Tử là phân tánh, phân thân của đức Thái Thượng đạo tổ, thì xin vì công ích mà bổ sung cho bài thuyết trình nầy.

Tuy nhiên, chỉ cần dựa vào kinh Tiên Giáo chí tâm qui mạng lễ của Cao Đài, ta cũng có thể kết luận rằng:

- Giáo hữu Cao Đài đa số chỉ coi đức Lão Tử là phân tánh, phân thân của đức Thái Thượng Lão Quân.

- Có thể cũng có người coi đức Lão Tử chính là đức Thái Thượng Lão Quân giáng phàm, nhưng chắc là số ít.

Sau những lời minh xác trên, tôi xin cống hiến quí vị mấy bài thơ do cơ bút, liên quan đến đức Thái Thượng Lão Quân và đức Lão Tử:

- Trong quyển kinh Thượng Thừa Chân Giáo, nơi tr. 28 có bài thơ Bát cú có khoán trung: ĐẠO TỔ LÃO

ĐAM, THÁI THƯỢNG TIÊN ÔNG.

Tam Kỳ ĐẠO mở, độ quần sinh,

Thanh tịnh TỔ truyền chỉ nẻo lành.

Bửu cá LÃO lai đời mạt hậu,

Điện tiền ĐAM dạy chớ đua tranh.

Giáo khai THÁI cực qui nguyên bổn,

Lý chánh THƯỢNG thừa để luyện phanh.

Đạo pháp TIÊN thiên thâu hấp dẫn,

Chân ngôn ÔNG dụng kiết nhi anh.

- Đạo Trưởng Chí Thuần cũng cho tôi mượn một bài thơ Cao Đài không rõ xuất xứ, nhưng rất hay vì ghi rõ Thái Thượng Lão Quân là đức Lão Tử với khoán thủ: TIÊN THIÊN KHÍ HÓA THÁI THƯỢNG ĐẠO QUÂN; Và khoán trung: NGÃ DANH LÃO TỬ GIÁO CHỦ ĐẠO TIÊN.

Bài thơ đó như sau:

TIÊN tri NGÃ giáng lập Long Hoa,

THIÊN đạo DANH lưu vạn quốc hòa.

KHÍ mãn LÃO đồng vô ẩm thực,

HÓA nhi TỬ thánh đạo chương tòa.

THÁI hoàng GIÁO huấn đời an lạc,

THƯỢNG trí CHỦ tâm mối đạo nhà.

ĐẠO chánh, ĐẠO trời qui bá đạo,

QUÂN ban TIÊN tịch hội kỳ ba.

Khảo thư tịch Đạo Lão thấy người xưa đã xưng tụng đức Lão là:

- Hỗn Nguyên Thánh,

- Thái Thượng Hỗn Nguyên Lão Tử,

- Thái Thượng Lão Quân,

và đã có những sách xuất bản dưới nhan đề là:

- Hỗn Nguyên Thánh kỷ,

- Thái Thượng Lão Quân niên phả yếu lược.

- Thái Thượng Hỗn Nguyên Lão Tử sử lược.

Nhân tiện đây cũng xin đề cập đến một vấn đề hết sức nan giải. Đó là năm đức Thái Thượng Lão Quân phân tánh giáng phàm làm Lão Tử, nói cách khác, năm đức Lão Tử đản sinh là năm nào?

Ngày tháng sinh của Ngài, ta đã biết. Đó là ngày rằm tháng 2 và hằng năm Cao Đài kỷ niệm, đó cũng chính là ngày lễ vía hôm nay mà chúng ta mừng. Còn năm sinh của đức Lão là khó mà xác định.

Có rất nhiều ý kiến:

1. Sách Đạo Tạng tập yếu Do Long truyệnSưu Thần ký cho rằng đức Lão sinh ngày 15 tháng 2 năm Canh Thìn năm thứ 9 đời vua Vũ Đinh nhà Thương, tức là năm 1316 tcn.

2. Sách Tục Văn Hiến thông khảoThần Tiên thông giám lại cho rằng Ngài sinh năm 1291 tcn tức là năm thứ 34 đời vua Vũ Đinh (năm Canh Thìn).

3. Sách Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Đạo Trưởng Huệ Lương cho rằng Ngài sinh đời Châu Mục Vương thứ 52, tức 910 tcn, ngày 15/2. (Sách trích dẫn, tr. 70)

4. Bộ Uyên giám Loại Hàm cho rằng Ngài sinh năm Ất Mão năm thứ 42 đời Châu Tuyên Vương, tức là năm 786 tcn.

5. Có người lại chủ trương Ngài sinh vào khoảng đời vua Định Vương nhà Châu vào những khoảng năm 605-585, tức là đồng thời với Đức Khổng, niên kỷ nầy cắt nghĩa được sự kiện hai Ngài gặp nhau vào khoảng các năm:

- 526, năm Cảnh Vương thứ 19, theo sách Phật tổ thông khảo.

- 518, năm Bình Vương thứ 1, theo thư tịch Khổng giáo.

- 503, năm Nhâm Tuất tức năm 17 đời vua Châu Kính Vương theo thư tịch đạo Lão như:

. Hỗn Nguyên Thánh kỷ.

. Thái Thượng Lão Quân niên phả yếu lược.

. Thái Thượng Hỗn Nguyên Lão Tử yếu lược.

6. Henri Doré dựa vào sách Phật tổ thông khảo, toán ra rằng đức Lão Tử sinh năm 584, mất năm 500 (xem chú thích 1 nơi trang 2 ở trên).

7. Học giả M.H. Dubs dựa vào Sử Ký Tư Mã Thiên và Chiến Quốc Sách, đã cho rằng đức Lão Tử đã sinh sống vào khoảng những năm 300 tcn. Như vậy, so lại các năm sinh của Ngài là thấy xê xích nhau từ 300 đến 600, đến 1000 năm, thật là ly kỳ hết sức.

8. Khi đã nhận định được rằng dân chúng xưa nay thường coi đức Lão Tử là Thái Thượng Lão Quân phân tính giáng trần, là Thượng Đế giáng trần, chúng ta sẽ không lấy làm lạ, khi đọc thấy Chân Loan, trong quyển Tiếu Đạo Luận, đã chủ trương rằng đức Lão Tử đã phân thân mình để tạo dựng nên trời, nên đất, nên vạn hữu. Sách viết: «Đức Lão Tử hóa thân. Mắt trái Ngài thành mặt trời, mắt phải Ngài thành mặt trăng, đầu Ngài thành núi Côn Lôn, râu Ngài thành Ngũ hành tinh và Nhị thập bát tú. Thịt Ngài biến thành muông thú, ruột Ngài biến thành các loại rắn, bụng Ngài biến thành biển cả, các ngón tay Ngài thành Ngũ Nhạc, lông Ngài thành cỏ cây, trái tim Ngài thành chòm sao Hoa Cái, và hai trái thận Ngài hợp lại thành Chân yếu phụ mẫu của Thực Tại.»

Huyền thoại nầy cũng tương đương như Huyền thoại Bàn Cổ, hay Purusha phân thân thành vũ trụ.

9. Cũng nên ghi nhận rằng ở Việt Nam cũng có nhiều người chủ trương rằng đức Lão Tử chỉ là một phân thân của Thượng đế, một sứ giả của Thượng đế.

Sau khi đã trình bày khái quát những nhận định của thế nhân về thân thế đức Lão qua triền không gian và thời gian, hôm nay, nhân ngày thánh đản, để tưởng niệm Ngài tôi sẽ trình bày tiểu sử Ngài, phác họa lại chân dung Ngài cho rõ ràng hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn và để cho đượm màu quang hoa tuế nguyệt tôi sẽ mượn lời của Tư Mã Thiên, của Biên Thiều và của tác giả Biến Hóa kinh để mô tả Ngài.

* Lược sử đức Lão theo Tư Mã Thiên

Lão Tử là người thôn Khúc Nhân , làng Lệ , huyện Khổ , nước Sở . Ngài họ Lý , tên Nhĩ , tự Bá Dương , thụy là Đam . Làm quản thủ thư viện nhà Chu.

Khổng Tử đến Chu, hỏi Lão Tử về lễ, Lão Tử nói: «Những người mà ông đề cập tới, đã hóa ra người thiên cổ từ lâu. Nay chỉ còn lại những lời nói của họ. Người quân tử khi đắc thế, thời đi xe; khi thất thế thời đi chân mặc rách. Tôi nghe nói rằng một con buôn giỏi tất nhiên thu sâu, dấu kín, hình như không có gì. Người quân tử đạo đức cao dày thường có vẻ ngoài như kẻ ngu si. Ông hãy từ bỏ sự kiêu căng và dục tình. Hãy từ bỏ những kiểu cách bên ngoài lòe loẹt và những tham vọng. Những cái đó chỉ làm hại cho ông. Đó là những gì tôi muốn nói.»

Khổng Tử ra về nói với đệ tử rằng: «Con chim ta biết nó có thể bay; con cá, ta biết nó có thể lội; con thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy thời có thể chăng dò, lội thời có thể đánh lưới, bay thời có thể bắn tên; đến như rồng, thời ta không thể biết; nó cưỡi mây mà lên trời. Hôm nay ta gặp Lão tử, ngài thực là rồng vậy.»

Lão Tử tu đạo đức. Cái học của ngài trọng ẩn dật, vô danh. Ở Chu lâu năm, sau thấy nhà Chu suy, liền ra đi. Tới quan ải, quan lệnh là Doãn Hỉ nói: «Ngài sắp đi ẩn, xin cố vì tôi viết sách.»

Lão Tử bèn viết Đạo đức kinh chia thành hai thiên gồm hơn năm nghìn chữ, đoạn đi, không biết sau ra sao.

Có người nói rằng: [Lão Lai tử chính là Lão Tử.] Lão Lai tử cũng là người nước Sở, viết sách mười lăm thiên, nói về chuyện đạo gia, đồng thời Khổng Tử.

Có người cho rằng Lão Tử biết cách tu dưỡng nên đã thọ 160 hay 200 tuổi. Lão Tử là một vị ẩn cư. Con ngài tên Tông . Tông làm tướng nước Ngụy , ở xứ Đoạn Can . Tông có con tên là Chú . Chú có con tên là Cung . Cháu sáu đời của Cung tên là Giả , làm quan đời Hán Văn đế (179-156). Con của Giả tên là Giải , làm quan thái phó cho vua Ấn nước Tề, ở xứ Giao Tây.

Người học Lão Tử thời châm biếm đạo Nho; người theo đạo Nho thời châm biếm Lão tử. Thế mới hay: Chẳng đồng đạo, thì chẳng cộng tác với nhau được. Lý Nhĩ vô vi để tự hóa; thanh tĩnh để tự chính.

Cuộc hội ngộ huyền thoại: Khổng Tử hỏi Lão Tử về Lễ

* Lược sử Lão Tử theo Lão Tử minh (Bia khắc chuyện Lão Tử)

Ngày Giáp Tí năm Diên Hi thứ tám, tức là ngày 8/8 tức ngày 24, 9/165 sau Công nguyên, Biên Thiều được lệnh Hán Hoàn Đế khắc bia kỷ niệm đức Lão và dựng tại đền thờ Ngài ở Khổ huyện. Xin được dẫn ít đoạn trong bi ký đó:

Sau khi lược thuật lại cuộc sống gian trần của đức Lão, Biên Thiều viện dẫn tư tưởng của những người sùng Đạo, mà luận về đức Lão Tử như sau:

Ngài cùng với Hỗn nguyên ly hợp,

Với tam quang, ngài vượt thời gian.

     Trông trời, đoán vận trần hoàn,

Bảy vì tinh đẩu, nhẹ nhàng xuống lên.

Cùng với ngày, biến thiên chín bận,

Tùy theo mùa, khi giảm khi tăng.

     Tinh huy, qui củ chuẩn thằng,

Tứ linh, tứ tượng vốn hằng chầu bên.

Ngưng thần khí, đơn điền não bộ,

Cung nê hoàn mấy độ tiêu dao.

     Sánh vai Thái nhất ra vào,

Đạo thành, thân thoát, từ bao độ đời.

Từ Hi, Nông, đến thời hiện tại,

Bao thánh hiền, ngài mãi là thầy...

Sau đó Biên Thiều dùng tư tưởng Đạo đức kinh phác họa lại đời sống Lão Tử như sau:

Đức Lão Tử sinh thời Chu mạt.

Yêu hư vô, mà bạn thanh nhàn,

Không cầu danh với thế gian,

Không ưa những thói phô phang đức tài.

Coi chức trọng là nơi nguy hiểm,

Vui sống trong chốn kém, chốn hèn,

Tặng cho đức Khổng lời khuyên,

Giã từ thế tục, lâm tuyền ẩn cư.

Thay họ mạc cũng như danh tánh,

Sợ đời hay, nên lánh chuyện đời.

Vừng dương sáng tối lần hồi,

Vầng trăng tròn khuyết đầy vơi tương tùy.

Thêm với bớt thịnh suy ấy gốc,

Và trên đời họa phúc theo nhau,

Trời kia nào thích đầy đâu,

Mà thương những kẻ gót đầu khiêm cung.

Theo Lão tử, lao lung vất vả,

Định giang sơn mấy nả mà mong?

Vì dân xin chớ kể công,

Công lênh rôt cuộc cũng không ích gì.

Ngài nay được tôn suy, sùng thượng,

Chính vì xưa chẳng tưởng công danh,

Một ngày một giảm công trình,

Sống trong hư tĩnh, siêu linh tuyệt vời.

Rằng ngài trước đất trời sinh xuất,

Chính vì ngài chẳng mất lòng son,

Thiên chân giữ được vẹn tròn,

Cho nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.

Nên tôi mạn mà ghi tiếp tục:

IV. Đức độ ngài rất mực cao siêu,

Hư không, thanh tĩnh đến điều,

Ưa nơi thấp kém, chê chiều quang hoa.

Giây khi thẳng, thời đà thẳng dẵng,

Nhưng đem khoanh cũng chẳng ngại cong,

Trời làm chấn động ba sông,

Can vua, vả khiến cho lòng dân an.

Nếu Âm chẳng lăng loàn lấn át,

Át Dương kia, tan tác sao sinh?

Cơ suy vừa lộ mối manh,

Thời đà rũ áo, ẩn mình từ đây.

Người nài nỉ: ra tay sáng tạo,

Đạo đức kinh di cảo dạy đời.

Nhẹ nhàng chỉ trích đương thời,

Đem điều sáng sủa soi nơi mịt mùng.

Cùng Thái nhất thủy chung bầu bạn,

Treo cho đời gương sáng chính trung.

Dặn dầy, chân thực thời ưng,

Mỏng manh hào nháng thời không ngó ngàng.

Ưa cốt cách, bạc vàng rẻ rúng.

Bao dục tình chặn đứng mới nghe.

Trở về trạng thái Anh nhi,

Mái sương vượt quá hạn kỳ trần gian.

Hành tung ngài, khó toan, khó luận,

Luật gian trần chẳng bận niềm riêng,

Khinh phiêu phơi phới tự nhiên,

Vô vi, vô dục biến thiên mặc tình.

Tiến hay thoái phiêu linh tùy tiện,

Tùy thời cơ thiên biến vạn năng.

Xá chi kiến thức gian trần,

Dẫu đầy mà vẫn ngỡ rằng còn vơi.

Bậc đại nhân siêu thời xuất thế,

Kẻ phàm phu, hồ dễ mà hay.

Uổng công xếp hạng nọ này,

Miệng phàm hồ dễ xấu lây danh người.

Cùng nhật nguyệt chói ngời sáng láng,

Cùng ngũ tinh chiếu rạng quang huy.

Vào ra nơi chốn đan trì,

Huỳnh đình lên xuống muôn bề khinh phiêu.

Cùng lưu tục chẳng điều quyến luyến,

Dấu phong quang làm biến hình hài.

Chắt chiu ôm ấp tính trời,

Muôn nghìn biến hóa theo đòi thần minh.

Hô hấp khí khinh thanh thuần túy,

Trong trần hoàn hồ dễ ai hay,

Vĩnh sinh ấy chính là ngài,

Đời rằng ngài với đất trời trường sinh.

Vua tế tự linh đình bày biện,

Để oai ngài trình hiện muôn nơi,

Tôi nay muốn để tiếng Người.

Cho nên ghi tạc những lời ngợi khen.

* Lược sử Lão Tử theo Biến Hóa Kinh

Biến Hóa kinh do Vương Trù chép và được một đạo sĩ Huyền đô xem lại. Chép ngày 14/8 Âm lịch năm Đại Nghiệp thứ 8 đời Tùy Dạng Đế (605-618), tức là 14/9 năm 612 cn. Bản kinh này viết rất khó hiểu lại có đôi khúc mắc. Ông M.Yshioka và ông M.Obuchi có đề cập bản kinh này nhưng không sửa lại. Bà Anna K.Seidel đã lược dịch kinh này trong quyển La Divinisation de Lao tseu dans le Taoisme des Hán. Tôi đã dịch thoát kinh này và trình bày nơi đầu quyển Đạo đức kinh của tôi.

Biến Hóa Kinh dứt khoát chủ trương rằng đức Lão Tử là Thượng đế, có từ muôn thủa, và đã giáng trần nhiều lần để cứu độ chúng sinh, nên đã dành cho đức Lão những lời lẽ hết sức là kính tôn, đẹp đẽ.

Biến Hóa Kinh viết:

     Những từ có trước đất trời,

Vui trong thái thủy tuyệt vời ngao du.

     Thung dung từ thủa thái sơ,

Khi còn chưa có bến bờ đục trong.

     Tịch nhiên tiêu sái, vô song,

Trước trời, trước đất thung dung vui hòa.

     Hai bề ẩn, hiện lại qua,

Ẩn là Thái nhất, hiện ra là người.

     Đục trong biến chuyển dòng đời,

Thần ngài mới mượn hình hài thế nhân.

     Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,

Bảy hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.

     Mượn nơi đất Sở giáng sinh,

Môi dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.

     Có văn tam ngũ rõ ràng,

Hai vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;

     Mũi hai sống, lỗ tai ba,

Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.

     Thiên nhiên vô dục tính trời,

Vô vi ấy chính nết người ở ăn.

     Giúp trời lại giúp thánh quân.

Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.

     Đời người ẩn ước ly kỳ,

Biến thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.

     Gặp khi vận nước nhiễu nhương,

Hôn quân vô đạo tìm đường ẩn thân,

     Giã từ nước Sở, lánh trần,

Cưỡi con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,

     Dặm Tần mù mịt nguồn cơn,

Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.

     Tinh hoa trời đất gồm thâu.

Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.

     Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,

Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.

     Âm dương mặc sức phân phôi,

Là hồn, là phách muôn loài thụ sinh.

     Hư vô chưởng quản mặc tình,

Biến thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.

     Bao trùm khắp tám phương trời,

Đất thời lo chở, trời thời lo treo.

     Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,

Tinh huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.

     Chư thần Lục Giáp nương hơi,

Càn khôn cũng mặc ý người ruổi rong.

     Tứ thời chuyển biến thong dong,

Hai chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.

     Tiêu phù cầm gọn nơi tay,

Chữ vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.

     Lão quân sáng tối tùy nghi

Tồn vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.

     Khuất thân, tiến thoái mặc tình,

Không gì thoát khỏi uy linh của người.

     Đi vào nước lửa như chơi,

Dầu lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.

     Gặp cơn bức bách chẳng sao,

Vương thương, vết tích tơ hào chẳng khi.

     Trường sinh chẳng có hạn kỳ,

 Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.

     Sánh đôi mà vẫn đơn thân,

Cô đơn mà vẫn chẳng phần lẻ loi.

     Ngài luôn gần gũi con người.

Không ai có thể sánh tài vô vi,

     Chẳng ai mà chẳng phải tùy,

Người người đều dõi bước đi của ngài.

     Hành vi Lão tử để đời,

Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.

     Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,

Những điều biến hóa mung lung khôn lường…

Biến Hóa kinh cho rằng từ thời Phục Hi cho đến thời Hán đức Lão Tử đã giáng trần 17 lần, và nguyên trong khoảng 20 năm từ năm 132 cn đến năm 155 cn, Ngài đã hiển linh, đã hiện ra nơi nọ nơi kia 5 lần để cứu độ chúng sinh.

Biến Hóa kinh chép:

     Ngài sinh cùng với Hư vô,

Tùy thời ly hợp trầm phù tiến lui.

     Khi lui, nguyên thể tài bồi,

Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.

     Thời Phục Hi, tên Ôn Sủng tử,

Thời Thần Nông, lấy chữ Xuân Thành;

     Thời Chúc Dung, gọi Quảng Thành,

Đến đời Chuyên Húc, Xích Tinh là người.

     Thời Đế Cốc, tên ngài Chân tử,

Thiên Lão khi cộng sự Hiên Viên;

     Thời Nghiêu, tên gọi Mạo Thiềng,

Thời Thuấn, Quách Thúc là tên của ngài.

     Thời Hạ Võ, tên thời Lý Nhĩ,

Thời Ân Thang, đích thị Tư Cung.

     Đời Văn, ngài thủ thư tàng,

Đến đời vua Võ, tên mang Vệ Thành.

     Đời Thành vương, tên Thành gọi lại,

Nguyên Khang 5, lại tái giáng trần;

     Trong lòng mẹ bảy hai năm,

Ra đời mới gọi tên bằng Lý Đam.

     Ngài cũng có Bá Dương là tự.

Và từng là quản thủ thư tàng;

     Bảy trăm tuế nguyệt chứa chan,

Băng chừng Sở quốc, lai hoàn cố hương.

     Lại gặp khi Bình vương ngoan cố.

Đạo đức trời tới độ suy vi.

     Ngài liền bỏ Sở ra đi,

Băng chừng tây tiến lâm ly dặm trường.

     Đến Hàm Cốc, gặp quan Doãn Hỉ,

Đạo đức kinh ngài ký thác cho;

     Thời Tần, Kiển Thúc cũng là,

Tên ngài Phù Khánh thời Hồ nhiễu nhương.

     Thời nhà Hán, Vương Phương Bình gọi,

(Mỗi khi cần, ngài mỗi hiện ra;)

     Năm đầu niên hiệu Dương Gia,

Thành đô núi Tước hiện ra đường hoàng.

     Năm đầu niên hiệu Kiến Khang,

Đỉnh non Bạch Lộc, rỡ ràng quang hoa.

     Năm đầu niên hiệu Thái Sơ,

Nơi đền Bạch Lộc hiện ra với đời.

     Kiến Hòa vào khoảng năm 2,

Lão quân lại hiện cửa ngoài Thành đô.

     Năm đầu Vĩnh Thọ hiện ra,

Đầu non Bạch Lộc xưng là Bộc Nhân.

     Những là lẳng lặng trầm ngâm,

Dẫu ai gạn hỏi cũng không trả lời.

     Đời sau lập miếu thờ ngài,

Xưng ngài Thiên Phó, tên ngài hiển linh.

               Ngài rằng:

     Ta vui trong cảnh Thái thanh,

Quang hoa xử sự, tinh thành trị dân.

     Nhiệm huyền biến hóa tấm thân,

Lấy tuần lâm tử, làm tuần phục sinh.

     Chu du bốn biển phiêu khinh,

Tứ thời bát tiết Huỳnh đình vào ra.

     Dòng đời khinh khoát vượt qua,

Tam hoàng mỗi bước ta đà theo chân.

     Tam thai ta đội làm khăn,

Áo ta đã được dệt bằng Hư vô.

     Phàm phu sao biết được ta,

Tử sinh, phản phục, biết là bao phen.

     Dân ta đông đảo muôn miền,

Phàm phu ngoài mặt, mà tiên đáy lòng.

     Quang huy thu liễm vào trong,

Tinh thần sung mãn bởi không hao gầy.

     Ai về ta tưởng đêm ngày,

Ta luôn phù trợ phút giây chẳng rời.

     Ai mà mơ đến ta hoài,

Hiển linh, ta sẽ vì người hiện ra.

     Cơ đồ nhà Hán phôi pha,

Xót vì, ta lại sinh ra ở đời.

     Phàm phu nhảy nhót dể duôi,

Nhưng mà trí giả nghe lời bảo ban.

     Đất trời nghiêng ngửa nguy nàn,

Ta bèn chuyển hóa mà toan cứu đời.

     Nay ta lựa chọn hiền tài,

Người hay người phải, ta thời nhận ra.

     Những ai mà muốn tìm ta,

Sách ta hãy đọc cho qua vạn lần,

     Tội khiên phải biết tự tân,

Làm người tri kỷ, tri thân mới là.

     Ta đây chẳng ở đâu xa,

Thần người cùng với Thần ta khác nào.

     Cha con tưởng nhớ gần sao,

Bằng không nhớ tưởng, xa bao dặm đường.

     Chớ nên biếng nhác buông tuồng,

Biếng lười, thần có cũng nhường như không.

     Theo ta mau mắn mới mong,

Mới mong ta tháo gỡ tung buộc ràng.

     Trắng, xanh ngoài mặt ngỡ ngàng,

Vàng, đen ẩn áo tiềm tàng bên trong.

     Sinh ta, màu đỏ ấy công,

Ta sinh từ Nhất, từ trong điểm vàng.

     Rượu nồng người chớ có ham,

Để ta đem đạo, chỉ đàng nẻo cho.

     Tu thân người phải nên lo,

Tâm thần an tĩnh, lòng hồ như vơi!

     Vô vi, vô dục thảnh thơi,

Lầm than, hoạn nạn có đời nào đâu !

     Cốc thần khăng khít trước sau,

Con đường giải thoát cơ mầu là đây.

     Lìa ta, suy tưởng dông dài,

Tâm thần lạc lõng, càng ngày càng mê.

     Cương nhu cân nhắc mọi bề,

Hai chiều thành bại, đi về do ta.

     Tả biên sinh khí mới là,

Hữu biên tử khí, giữa là Hoàng trung.

     Giữa là Hoàng khí mung lung,

Nguyên dương nghi ngút muôn trùng cửu tiêu.

     Khuyên chư đồng tử sớm chiều,

Tiềm tâm tu luyện, để theo Đạo mầu.

     Ta đà căn dặn từ lâu,

Kim tinh lệch lạc thì cầu tới ta.

     Mau mau rong ruổi mới là,

Gặp ta Nam Nhạc, sẽ qua nguy nàn.

     Chớ đừng bịn rịn tơ vương,

Xuân ngày Quí tỵ nên thương thả tù.

     Đâu đâu dân cũng âu lo,

Bệnh tình chất ngất, ngã cơ đầy đường.

     Ta nay hoán cải mối giường,

Cơ đồ nhà Hán tan hoang từ rày.

     Dân ta đã biết, đã hay,

Tránh điều vạ gió, tai bay sá nào.

     Những người thành khẩn thanh cao,

Việc ta thông tỏ tơ hào khó chi.

      Ý ta hiền thánh minh tri,

Phàm phu nào biết vân vi gót đầu.

     Bao lần giáng thế trước sau,

Theo dòng lịch sử cơ mầu biến thiên.

     Hiểu ta hỏi mấy thánh hiền,

Chê ta, vô số phàm hèn bấy nay.

Hàm Cốc Quan: Quan lệnh Doãn Hỉ bái Lão Tử, xin Lão Tử viết quyển Đạo Đức Kinh

2. Nhận định và giải thích các quan điểm trên

Khảo các tiểu sử về đức Lão Tử và những huyền thoại về Lão Tử, những quan điểm dân gian về đức Lão Tử trên đây đã trình bày, ta có thể qui lại thành 5 điểm như sau:

(1) Ngài có một cuộc thai sinh kỳ bí: ở trong lòng mẹ 72 năm, khi sinh ra đã bạc đầu.

(2) Ngài là một người trời, sống vĩnh cửu cùng với đất trời.

(3) Ngài chính là Thượng Đế giáng trần nhiều lần để cứu độ chúng sinh.

(4) Ngài là một phân thân của Thượng đế.

(5) Ngài là một sứ giả của Thượng đế.

1. Về cuộc thai sinh kỳ bí của Lão Tử, ta không nên lấy làm lạ, vì dân gian xưa nay đều thêu dệt rất nhiều huyền thoại quanh cuộc thai sinh của vị giáo chủ mình.

2. Một đặc điểm khác trong tiểu sử của đức Lão Tử cho thấy rằng Ngài có từ trước đất trời và sống vĩnh cửu cùng trời đất. Đây cũng không phải là một dữ kiện gì mới mẻ trong hiện tượng đạo giáo:

- Đối với Phật giáo, thì đức Phật cũng đã có từ muôn kiếp.

- Đối với Công giáo, thì chúa Jesus cũng đã có từ muôn kiếp.

- Hơn thế nữa, Trang tử còn dám nói:

   Ta và trời đất cùng sinh,

Ta và vạn vật sự tình chẳng hai.

Quyển Từ Viên tiên sư chân kinh, có các câu thơ sau:

«Đương thời vị hữu tinh, hà, đẩu,

Tiên hữu ngô, đương hậu hữu thiên.»

Dịch:

Trước khi Thiên Hàn, quần linh có,

Trước đã có Ta, mới có trời.

Và:

«Ngã thể bản đồng thiên địa lão,

Tu Di sơn đảo, Tính do tồn.»

Dịch:

Tính ta vốn thọ cùng trời đất,

Tu Di nghiêng đổ, Tính vẫn còn.

Tất cả những sự kiện trên chỉ có thể hiểu được, nếu ta chấp nhận rằng con người có 2 phần:

1. Phần Thiên, phần Thần, bất sinh, bất tử, có từ muôn thủa, mà Lão Tử gọi là Đạo, Nho gia gọi là Thái cực, Bà la môn gọi là Atman, Phật giáo gọi là Chân như, hay Bản Lai diện mục…

2. Phần Nhân, phần Tâm, phần Hồn, có sinh có tử mà ta thường gọi là phàm tâm, vọng tâm, hay vọng ngã, tiểu ngã.

Như vậy, thì chẳng cứ gì Lão Tử và các vị giáo chủ mà cả mọi người trong chúng ta đều có cái phần vĩnh cửu, các phần bất sinh, bất tử ấy. Có mà không biết, có của quí trong tay, mà vẫn cho rằng mình khó, mình hèn, chuyên đi xưng tụng người khác, thèm thuồng số phận người khác. Thật là câu chuyện hết sức trái khoáy, hết sức ly kỳ.

Đúng như lời kinh Dịch chê nơi quẻ Di: «Xả nhĩ linh qui, Quan ngã đóa di.» , (Mình có sẵn linh qui thì lại bỏ, để đi nhìn mồm người khác ăn mà thèm thuồng. (Xem Quẻ Di , hào sơ cửu).

3. Một sự kiện cần được giải thích nơi đức Lão Tử là chuyện người được dân chúng nhất là từ thời nhà Hán coi như là Thượng Đế giáng trần, chẳng những một lần mà nhiều lần.

Khảo về các đạo giáo, ta thấy ở nhiều dân, nhiều nước đã có nhiều vị chân nhân được dân chúng coi như là hiện thân của Thượng đế, như là Thượng Đế giáng trần.

Ấn Độ coi Rama Krishna, và gần đây coi Ramakrishna như là Thượng Đế giáng trần.

Âu Châu tin rằng chúa Jesus là Thượng Đế giáng trần.

Lịch sử cho thấy có nhiều người đã xưng mình là Thượng Đế giáng trần. Xưng mình là hiện thân của Thượng đế.

Ví dụ Al-Hallaj, một thánh nhân Hồi giáo thường xưng mình là Thượng Đế, là Chân lý, nên đã bị cầm tù từ năm 915 đến ngày 23/3/922, thì bị xử tử, chặt tay chân, đoạn treo trên thập giá, mấy ngày sau mới chém đầu, vì tội dám phối hợp lẫn lộn trời người, gây hoang mang cho mọi người.

Al-Hallaj đã nói: «Ta là đấng ta yêu, đấng ta yêu là ta. Chúng ta là hai thần trong một xác. Nếu Bạn thấy ta, Bạn sẽ thấy Ngài, nếu Bạn thấy Ngài, Bạn sẽ thấy ta.»

Ta có thể dịch lại lời trên thành thơ như sau:

     «Ta cùng với đấng ta yêu,

Hai đàng là một, khôn chiều qua phân.

     Một thân mà có hai thần,

Thấy ta, thấy Chúa cũng ngần ấy thôi.»

Chúa Jesus cũng xưng mình là Thượng đế, và trong Phúc Âm, cũng có một lời tuyên bố tương tự như lời Al-Hallaj Chúa phán: «Ai đã thấy ta, tức là thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng tôi? Ngươi há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta hay sao?» (Jean, 14, 9-10)

Chúng ta có thể giải thích sự kiện trên như sau:

- Xưa nay các bậc thượng trí, thượng nhân đều tin rằng Trời chẳng xa người, mà đã ngự ngay nơi tâm khảm con người, Trời chính là cốt lõi, là tin hoa, là bản thể, là trục cốt là căn cơ của con người.

- Thiên đạo, hay Huyền học chỉ cốt dạy con người chân lý thiết yếu ấy.

- Thánh nhân, chân nhân là những người đã đạt đạo. Mà đạt đạo tức là sống phối kết với Thượng Đế, ngay từ ở gian trần nầy, nên đã được đồng hóa với Thượng Đế trong hào quang tình yêu và lòng xót mến.

Cũng có thể giải sự kiện này bằng thuyết Nhất thể tán vạn thù, vạn thù qui nhất của Á Đông. Nếu chấp nhận nhất thể tán vạn thù, thì ai trong chúng ta lại chẳng là một điểm linh quang từ Thượng Đế tung tỏa, chiếu diệu xuống cõi hồng trần này. Nếu chấp nhận Vạn thù qui nhất thể thì kẻ trước người sau, ai trong chúng ta mà lại sẽ không trở về nhập thể lại với vừng dương muôn thủa, trở về kết hợp với Thượng Đế:

Theo nhãn quan này, thì Phật, Lão Tử, Chúa Jesus, Khổng Tử dù được ca tụng đến đâu, thần thánh hóa đến đâu, cao sang đến đâu, cũng chỉ là những tiền thân của chúng ta. Con đường các Ngài đi, chúng ta sau trước cũng sẽ đi lại. Những trạng thái các Ngài đã kinh qua, rồi đây chúng ta cũng sẽ kinh qua. Cho nên bàn về thân thế quá vãng các Ngài, chính là bàn về thân thế tương lai của chúng ta. Có được thái độ như vậy, thì chúng ta vẫn xưng tụng các Ngài, vẫn suy tôn các Ngài, và vẫn giữ được giá trị siêu việt của chúng ta.

4. Còn như coi đức Lão Tử như là một phân thân của Thượng Đế sứ giả của Thượng đế, giáng trần với sứ mạng dạy dân, dạy đời, thì là một quan điểm hợp tình, hợp lý, chẳng có gì đáng chỉ trích…

3. Ít nhiều nhận định riêng tư về đức Lão Tử

Trên đây, tôi đã trình bày để quí vị thấy rằng xưa nay có rất nhiều nhận định về đức Lão Tử, nhiều quan điểm về đức Lão Tử. Các quan điểm ấy khác nhau, tùy theo lập trường của mỗi người.

- Người thì cho rằng đức Lão Tử chỉ là một vị ẩn tu, ẩn sĩ.

- Người thì cho rằng Ngài là một người trời có từ muôn thủa.

- Người thì cho rằng Ngài chính là Thượng Đế giáng trần.

- Người thì cho rằng Ngài chỉ là một phân thân của Thượng Đế, sứ giả của Thượng Đế.

Và tôi đã cố gắng giải thích các quan điểm trên. Tiện đây, tôi mạo muội cũng xin trình bày một vài nhận định riêng tư về đức Lão Tử.

Trước hết tôi nhận định rằng:

(1) Đức Lão Tử là một con người hiếu cổ

Thực ra đức Lão Tử không phải là người đầu tiên đã khám phá được chân lý, chân đạo. Nhiều bậc Chân nhân trước Ngài đã tìm ra được và thực hiện được chân lý, chân đạo.

Khi nghiên cứu Đạo Đức kinh, tôi đã thấy rằng đức Lão Tử đã học rất nhiều điều của người xưa.

Trương Kỳ Quân, trong quyển Trung Hoa ngũ thiên niên sử, quyển 3, nơi chương nói về Lão Tử cũng có chủ trương y thức như tôi. Ông đưa ra 9 bằng cớ để chứng minh rằng trong khi viết Đạo Đức kinh, Lão Tử đã tham bác các tác phẩm các học thuyết của người xưa, nhất là của Sử Dật.

Dẫu sao thì trong Đạo Đức kinh, đức Lão Tử nhiều lần đã long trọng tuyên dương đường lối và đời sống cao siêu của người xưa, những phương châm cao đại của người xưa, mục đích cao đại của người xưa.

Ngài đã để cả chương XV để ca tụng đời sống huyền diệu của các nhà huyền học thời xưa, các bậc chân nhân thời xưa. Ngài viết:

Ai người xưa, khuôn theo đạo cả,

Sống huyền vi, rất khó tri tường;

Nay ta gạn ép văn chương,

Hình dung, dáng dấp liệu đường phác ra.

Họ e ấp như qua băng tuyết,

Họ ngỡ ngàng như khiếp láng giềng;

Hình dung phong thái trang nghiêm,

Băng tan, tuyết tán, như in lạnh lùng.

Họ đầy đặn in chừng mộc mạc,

Nhưng khinh phiêu man mác hang sâu;

Hỗn mang ngỡ nước đục ngầu,

Đục ngầu lắng xuống một màu trong veo.

Ngỡ ù cạc một chiều an phận,

Nào ai hay sống động khôn lường.

Phù hoa gom góp chẳng màng

Đã say đạo cả, coi thường phù hoa.

Sống ẩn dật, không phô thanh thế.

Việc thế gian hồ dễ đổi thay…

Nơi chương 41, Ngài viết:

«Lời xưa đã từng khi truyền tụng,

Biết đạo thời như vụng như đần;

Tiến lên mà ngỡ lui chân

Tới bên Đạo cả mà thân tưởng hèn…»

Nơi chương 42 Ngài nhắc lại phương châm người xưa:

«Người xưa dạy câu này chí lý,

Ta cũng đem ta chỉ cho đời;

Xin đừng bạo động ai ơi!

Ai mà bạo động, chết thôi bạo tàn.

Đó là then chốt ta ban…»

Nơi chương 68, Ngài viết: «Sống kết hợp với Trời, là tuyệt điểm của người xưa.»

Liệt Tử cho rằng câu: «Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn.» đã có trong Hoàng đế thư.

Trang Tử cho rằng: «Câu thất đạo nhi hậu đức … Thất nghĩa nhi hậu lễ … v.v…» là lời của Hoàng Đế.

Hàn Phi Tử cho rằng câu: «Tương dục hấp chi, tất cố trương chi.» , v.v… là lời của Chu thư.

Các chương 22, 46, 57, 69, 78 của Đạo Đức kinh đều trích dẫn cổ thư .

Xem như vậy thì Lão Tử:

- Chuộng cổ nhân.

- Mộ đạo cổ nhân.

- Yêu nếp sống thiên nhiên của cổ nhân.

- Đã đạt tới tinh hoa mà cổ nhân đã đạt.

- Muốn làm sống lại đời sống đạo đức, nếp sống thanh đạm, giản dị, mộc mạc, khinh phiêu, của cổ nhân, về phương diện cá nhân cũng như về phương diện chính trị.

Cho nên về phương diện hiếu cổ, hoài cổ, ta thấy đức Lão Tử hoàn toàn giống đức Khổng Tử. Trong Luận Ngữ, đức Khổng cũng đã nói:

«Ta trần thuật nhưng không sáng tạo,

Tin cổ nhân, độ đạo cổ nhân.»

Như vậy, người xưa phải có cái gì đẹp đẽ siêu việt cho nên các bậc thánh hiền sau này mới ra công khai thác, bảo vệ và lưu lại cho hậu thế.

- Cái tinh hoa siêu việt của người xưa là gì?

a. Người xưa sống gần Đạo, gần Trời.

Đã đành không phải mọi người xưa đều có cái diễm phúc sống gần Đạo, gần Trời, nhưng chắc chắn là đã có nhiều bậc chân nhân đã đạt tới cực điểm tinh hoa đó.

b. Người xưa đã trực giác được rằng Đạo thể hay Thượng đế, hay Đạo tâm đã tiềm ẩn trong lòng sâu vạn hữu, trong lòng sâu con người.

Cho nên muốn tìm Đạo, tìm Trời, phải tìm nơi sâu thẳm đáy lòng, phải tìm nơi trung tâm điểm đầu não con người.

Càng đi sâu vào đáy lòng, vào trung tâm đầu não con người, càng thấy hiện rõ lên Đạo thể huy hoàng, sán lạng. Và khi vào đến tâm điểm đầu não con người, sẽ nhận chân được rằng nơi đó có đủ Tam Thanh, Tam Cảnh, nơi đó chính là động phủ thần tiên, sở cư của Cốc Thần bất tử…, nơi đó chính là nguồn mạch huyền vi mà Bản thể đã tung tỏa ra muôn ngàn hiện tượng.

Tính Mệnh Khuê Chỉ chép: «Xưa Hoàng đế lên núi Nga mi gặp Thiên Chân Hoàng Nhân ở Ngọc Đường và hỏi về cái đạo Chân Nhất. Hoàng Nhân đáp: Đó là điều quí trọng nhất của Đạo gia. Kinh của Đạo này Thượng Đế giấu trong năm thành của núi Côn Lôn, cất trong hòm ngọc, viết vào thẻ vàng, phong bằng bùn tía, đóng ấn bằng chữ Trung. Nhất đó ở Thái Uyên Bắc cực, trước có Minh Đường, sau có Ngọc Chẩm, trên là Hoa Cái, dưới là Giáng Cung.»

Với những lời lẽ mập mờ, ẩn hiện đó, ta thấy Hoàng Nhân muốn nói như sau: Muốn tìm Đạo, tìm Trời, tìm Chân Nhất, tìm Trung, phải tìm nơi Tâm điểm đầu não con người.

Hiểu được điều này, ta sẽ lần ra được chuỗi liên châu đạo thống nối liền cổ kim:

- Lão Tử, nơi chương 6 Đạo Đức Kinh, nói: «Cốc thần bất tử thị vị Huyền Tẫn, Huyền Tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.» , , . Liệt tử bình rằng: Câu này đã có trong Hoàng Đế thư, tức là từ đời thượng cổ.

- Huỳnh Đình ngoại cảnh viết: «Tử dục bất tử tu Côn Lôn.» (Ch.6) Mà Côn Lôn chính là đầu não con người.

- Tính Mệnh Khuê chỉ nơi quyển Hanh, tr.21b, có câu: «Đầu hữu cửu cung, trung hữu Nê Hoàn.» .

-Trong quyển Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Đạo Trưởng Huệ Lương nơi trang 116, ta thấy ghi lại một đoạn cơ bút như sau: «Huyền quan nhất khiếu ấy là chi? Là Thiên Nhãn vậy. Nó ở ngay Nê Hoàn cung, gom trọn chơn dương chánh đạo. Hai con mắt các con là nhục nhãn, tức là Âm với Dương. Thì cũng như Thái Cực là Thiên Nhãn, còn lưỡng quang là Nhật, Nguyệt hằng soi sáng khắp Càn Khôn, cứ toàn hoàn mãi, hết ngày đến đêm, hết đêm lại ngày, không bao giờ dứt được sự tuần hoàn của Tạo Hóa.»

Mới hay xác định được Nê Hoàn cung là tìm ra manh mối tất cả. Thảo nào mà người xưa dùng lẫn lộn hai chữ Niết Bàn với Nê Hoàn. (Xem Phật học từ điển Đoàn Trung Còn, nơi chữ Nê Hoàn.)

c. Người xưa cho rằng: Cực điểm tinh hoa là Phối Thiên (Đạo Đức Kinh, ch. 68)

d. Người xưa sống trong cảnh tĩnh lãng buổi ban sơ có một tâm thần hồn nhiên tiêu sái; họ không bị dục vọng cuốn lôi, không bị lợi danh dụ dỗ, không phải lo đấu tranh để sinh tồn là bao nhiêu, không bị tập tục, qui ước, luật lệ xã hội gò bó, thằng thúc, chính vì vậy mà họ thảnh thơi, khinh khoát. Đó chính là nếp sống lý tưởng mà đức Lão Tử đã phác họa lại trong Đạo Đức Kinh.

(2) Lão Tử là một chân nhân đắc đạo, một nhà Huyền học

Tôi cũng chủ trương rằng: Đức Lão Tử là một bậc chân nhân đã sống phối kết với Đạo, với Trời. Theo danh từ quốc tế hiện đại, thì Ngài là một nhà Huyền Học.

Nói như vậy, tức là Ngài không phải là Thượng Đế giáng trần để cứu nhân loại như người Trung Hoa thời xưa đã chủ trương, mà Ngài chính là một con người nhờ công phu tu luyện, học hỏi, đã liễu đạt được chân tính con người, đã sống phối kết với Trời với Thượng đế.

Suy tôn Ngài là Thượng Đế giáng trần chẳng những một lần, mà nhiều lần để cứu nhân loại như Biến Hóa kinh đã chủ trương, hay như một con người bất tử đã sang cả Ấn Độ để dạy đạo cho đức Phật như Hóa Hồ kinh chủ trương, thực ra cũng chẳng có lợi gì cho chúng ta, vì như vậy chúng ta không có cách gì để tìm cho ra được đường lối của Ngài.

Ngược lại, coi Ngài là một người vì học vấn, vì công phu tu luyện, đã tìm ra được chân đạo, đã đạt tới trạng thái cực cao minh linh diệu của con người, sẽ giúp ta hiểu đạo Ngài, và giúp ta biết đường theo chân nối gót Ngài.

Cát Hồng tiên sinh viết: «Các học giả có óc chật hẹp hòi đã coi Lão Tử là một người Trời siêu xuất quần sinh và khuyên các thế hệ tương lai bắt chước Ngài; nhưng làm như thế tức là ngăn cản không cho mọi người tin được rằng nhờ học hành mà tìm ra được bí quyết trường sinh bất tử.” Thực vậy, nếu Lão Tử là một hiền nhân đã đắc đạo, thì mọi người phải hết sức để theo gương Ngài, bắt chước Ngài, nhưng nếu ta nói rằng: đó là một nhân vật đặc biệt, có thiên tính, thì ta không thể nào bắt chước Ngài được nữa.

Mạnh Tử cũng viết: «Phàm những vật đồng loại, thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại, người ta lại nghi rằng bản tính chẳng tương tợ. Những vị thánh nhân và chúng ta đồng một loại …»

Nói Lão Tử là một nhà huyền học, nhiều người tưởng rằng làm như vậy đã giảm giá đức Lão Tử. Trái lại, nếu chúng ta hiểu thế nào là huyền học, ta sẽ thấy đó là một huy hiệu rất cao siêu.

Huyền học (mystique) là một danh từ tặng dữ cho những ai có một đời sống siêu nhiên mãnh liệt, y thức như đã tiếp xúc được với nguồn huyền lực vô biên của vũ trụ.

Những nhà huyền học là những người:

- Có tâm thần hết sức thông minh, tinh tế.

- Nhìn thấy được tấn tuồng biến thiên, ảo hóa của vũ trụ cũng như của lịch sử nhân quần.

- Cố tu luyện, cố thanh lọc tâm thần để đi đến chỗ cao minh linh diệu.

- Sống phối kết với Trời, coi mình là hiện thân, là biểu dương của Trời, của Thượng Đế …

Các nhà huyền học Đông cũng như Tây đều tin tưởng rằng sau bức màn hiện tượng biến thiên chất chưởng, còn có một Bản thể siêu việt, Tuyệt đối. Các Ngài không biết dùng danh từ gì để mô tả Tuyệt đối thể ấy cho hay cho xứng, cho nên hoặc là tuyên bố mình bất lực trước Tuyệt đối thể vô biên ấy, hoặc là dùng những danh từ tiêu cực, mơ hồ để diễn tả, để đề cập tới.

Các Ngài cho rằng con người sinh ra phải tìm về cho được nguồn mạch linh thiêng huyền diệu ấy, và tất cả các biến hóa của vũ trụ lúc chung cuộc cũng kết thúc trong đại thể vô biên tế ấy.

Mà nguồn mạch linh thiêng huyền diệu ấy đã tiềm ẩn ngay trong lòng con người. Con người chỉ việc lắng lòng lại, chỉ việc thu thần định trí, nhìn sâu vào tâm khảm mình sẽ tìm ra được Bản thể siêu việt, huyền diệu ấy …

Tìm ra được rồi, chỉ việc sống một đời sống khiêm cung, giản dị, hồn nhiên, tiêu sái, hạnh phúc. Từ nay không còn lo âu, không còn háo hức, vì biết rằng ngoại cảnh chẳng qua là những tấn tuồng phù du biến ảo. Từ nay, sẽ thoải mái, hạnh phúc, vì biết rằng mình đã nắm giữ được một cái gì quí báu nhất trần gian …

 II. CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH CỦA ĐỨC LÃO TỬ

1. Thế nào là con đường huyền nhiệm tâm linh?

Như trên đã chứng minh, đức Lão Tử là con người thực hiện được Thiên Chân, đã tìm ra được con đường huyền nhiệm. Chính vì thế mà Ngài trở thành vị Tiên phong, hướng đạo, soi đường cho chúng ta bước vào con đường huyền nhiệm, con đường dẫn tới Thiên chân, Đạo thể.

Tôi nghĩ rằng tất cả giá trị Đạo Đức Kinh cũng như của đạo Lão chính là ở chỗ đã vạch cho chúng ta con đường nội tâm, với những giai đoạn, những công phu tu luyện để trở về phối kết với Đạo thể, Đạo tâm.

Henri Maspero có lẽ là một học giả Âu Châu đầu tiên đã nhận định về Lão Trang một cách hết sức đúng đắn, tinh tế, sâu sắc. Ông nói: «Thực hiện một đời sống huyền đồng, đó là một khám phá mới lạ nhất của môn phái Lão Trang. Họ là những người đầu tiên ở Trung Hoa đã đi trên con đường đó, và đã mô tả những giai đoạn của đường đó.»

Tại sao gọi là con đường huyền nhiệm?

Thưa vì con đường dẫn tới Đạo tới Trời mà Lão Tử sẽ đưa chúng ta đi, sẽ không phải là một con đường lộ liễu bên ngoài. Nó không băng qua Đạo đường, đạo quán, không băng qua ảnh tượng, lễ nghi, mà thực ra đã ẩn áo trong mỗi con người.

Tại sao gọi là con đường huyền nhiệm tâm linh?

Vì con đường đạo hạnh này sẽ không xuyên qua núi non, sông biển, để đi đến một non Bồng, nước Nhược nào ở bên ngoài, cũng không phải là một con đường băng qua thinh không, vượt qua Ngưu, Đẩu, để lên tới một cảnh giới thiên đường xa xăm nào, mà chính là con đường băng qua hình hài, hướng thẳng tới nội tâm, băng từ biên khu thân xác, hình hài, qua óc não, phách hồn, vào thẳng tới tâm khảm con người nơi Đạo, nơi Thần, nơi Nhất ngự trị.

- Đã đề cập tới một con đường, thì chúng ta phải xác định:

. Đâu là khởi điểm

. Đâu là đích điểm

. Các giai đoạn trên lộ trình đó ra sao.

Cho nên, trước khi bàn về các giai đoạn trên lộ trình đó, tôi sẽ đề cập đến khởi điểm và đích điểm.

- Xin quí vị hãy tạm thời cùng tôi chấp thuận:

. Khởi điểm là Ngũ quan, tứ chi, bá hài mà nơi đây tôi tượng trưng bằng đôi mắt. Đôi mắt đây, cũng là Âm Dương, mà Âm Dương ám chỉ tất cả những gì thuộc về Thế giới hiện tượng, hữu hình, mâu thuẫn, tương đối.

. Đích điểm là Đạo, là Trời, là Thiên Nhãn, theo danh từ Cao Đài. Mà ở trên đây tôi đã dùng các bài cơ bút xác định được vị trí là ở Tâm điểm não bộ, ở nơi Nê Hoàn Cung.Đạo, Trời, Thiên Nhãn là gì nếu không phải là Bản thể con người, Căn nguyên, trục cốt của con người và đồng thời cũng là Căn nguyên, Trục cốt của vũ trụ? Vả chăng chúng ta cũng biết Đạo, Trời, Thiên Nhãn thời Tuyệt Đối, thời siêu việt, thời Hằng Cửu, thời Chân thực.

Nếu quí vị chấp nhận đích điểm và khởi điểm mà tôi vừa trình bày trên, quí vị chẳng những thực sự vẽ lại được một con đường. Hơn thế nữa, quí vị còn thấy con đường huyền nhiệm tâm linh này dẫn:

- Từ thấp tới cao,

- Từ hèn tới quí,

- Từ phù sinh đến vĩnh cửu,

- Từ giả đến chân,

- Từ tăm tối đến ánh sáng,

- Từ hiện tượng đến bản thể,

- Từ hữu vi, hữu tướng tới Vô vi, vô tướng.

- Từ tương đối, tới tuyệt đối,

- Từ vạn, từ đa tạp, tới Nhất, tới Thuần thể.

Vả lại, con đường này ngắn ngủi chứ chẳng có xa xăm, diệu vợi.

Hai mắt và Thiên Nhãn hợp với nhau thành một hình tam giác đều. Đường nối hai đồng tử mắt là đáy hình tam giác. Thiên Nhãn là đỉnh hình tam giác.

Khoảng cách giữa hai mắt ta đo được: Nó dài khoảng chừng 3 tấc ta, tức là khoảng bề ngang 4 ngón tay xếp khép liền.

Như vậy thì từ Nhục Nhãn tới Thiên Nhãn, khoảng cách cũng như vậy. Vả ta biết được rằng Thiên Nhãn hay Đạo hay Cốc Thần là ở trung điểm Nê Hoàn cung như trên đây đã dùng kinh điển xác minh.

 

Đoạn đường ấy gần thì thật gần, vì biết đi, thì chẳng đi đã tới, như lời Đạo Đức Kinh, chương 47; nhưng xa thì cũng thiệt là xa, vì chẳng biết đường đi thì muôn năm cũng chẳng tới nơi.

Đoạn đường nầy, gần thì thực gần, nhưng phàm thánh xưa nay đều quanh quẩn ở điểm này, điểm nọ trên khoảng đường ấy mà thôi, chẳng khác nào Tề Thiên Đại Thánh, khi đã nhảy lên bàn tay Phật, thi triển thần thông, ruổi rong muôn vạn dặm đường, mà đến khi kiểm điểm lại, vẫn thấy mình còn đứng trên ngón tay giữa của Phật.

Vả con đường này thường cũng chẳng có thông suông, vì như lời Mạnh tử, lau lách dục tình đã lấp kín con đường nội tâm này rồi. Mạnh Tử nói: «Kim mao tắc tử chi tâm hĩ.» (Nay lau lách đã lấp kín tâm hồn bạn rồi.)

Chính vì thế mà trong tập Trung Dung yếu chỉ tôi đã viết:

     Biên khu luân lạc từ bao!

Tìm sao cho thấy đường vào Trung Dung.

     Đường Trung Dung linh lung ẩn khuất,

Nẻo Bồng Lai, gai lấp lau che … .

Trên đã nói: Đích điểm là Đạo. Khởi điểm là thế giới phù sinh. Mà nơi đây tôi quán xuyến bằng đôi con mắt. Chính vì vậy mà nơi chương đầu Đạo đức kinh, đức Lão Tử bàn về Đạo, tức là về Bản Thể, căn cơ con người, đồng thời cũng là đích điểm con người. Nhận định rằng Đạo chính là Hóa Công, là Trời, là Khuôn thiêng đã tạo ra muôn loài, muôn vật, đồng thời cũng là đích điểm, là mục phiêu của công trình phản bản hoàn nguyên, nên tôi đã mạo muội dịch Đạo là Hóa Công, là Khuôn thiêng.

Lão Tử viết:

     Hóa Công hồ dễ đặt tên,

Khuôn thiêng hồ dễ mà đem luận bàn.

     Không tên sáng tạo thế gian,

Có tên là mẹ muôn vàn thụ sinh.

     Tịch nhiên cho thấy uy linh,

Hiển dương cho thấy công trình vân vi.

     Hai phương diện, một Hóa Nhi,

Huyền linh khôn xiết, huyền vi khôn lường.

     Ngài là Chúng diệu chi môn,

Cửa thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi …

Tiếp theo ngay nơi chương 2, đức Lão Tử bàn về sự phù du, chất chưởng, mâu thuẫn, tương đối của kiếp phù sinh, hiện tượng này. Ngài viết:

     Người đời thấy đẹp biết khen,

Thế là cái xấu đã chen vào rồi.

     Điều hay đã rõ khúc nhôi,

Thời đà dang dở, lôi thôi sinh dần.

     Mới hay không, chuyển vần,

Dễ sinh ra khó, ngắn nhân thành dài.

     Thấp, cao tùy ngó ngược, xuôi,

Tiếng ca trầm, bổng, dòng đời trước sau.

     Thánh nhân khinh khoát tầng cao,

Vô vi, thầm lặng tiêu hao dạy đời.

     Kìa xem muôn vật thảnh thơi,

Im lìm sinh hoạt, một lời cũng không.

     Ngày đêm chẳng kể công,

Công thành phơi phới, tuyệt không bận lòng.

     Không nấn ná lúc thành công,

Cho nên tồn tại mãi cùng thiên thu …

Khi đã cho ta thấy rõ, Cùng điểm và Khởi điểm của con đường Huyền nhiệm tâm linh, đức Lão Tử khuyên mọi người đi vào con đường Qui Căn, Phản Bản. Ngài viết nơi chương 16:

Thử tách khỏi dòng đời luân chuyển,

Để lặng thinh ngắm chuyện trần hoàn;

Muôn loài sinh hóa đa đoan,

Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.

Hoàn Bản Nguyên an nhiên phục mệnh,

Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng;

Biết truờng tồn, mới là thông,

Trường tồn không biết, ra lòng tác yêu.

Biết trường tồn muôn đời thư thái,

Lòng ung dung hưởng khoái công hầu;

Công hầu, vương tước xa đâu,

Vượt thang thần thánh lên bầu trời cao.

Lên trời thẳm, hòa vào Đạo cả,

Cùng đất trời, muôn thủa trường sinh,

Xác tan, chẳng hại chi mình ...

Bước được vào con đường huyền nhiệm nội tâm ấy, tuy ngồi nhà mà vẫn hay thiên hạ sự. nơi chương 47, đức Lão Tử viết:

     Ở nhà chẳng bước đi đâu,

Thế mà thiên hạ gót đầu vẫn hay.

     Tuy rằng cửa đóng then gài,

Thế mà vẫn hiểu đạo trời vân vi.

     Con đường phiêu lãng càng đi,

Càng xa, càng lạc, biết gì nữa đâu.

     Cho nên hiền thánh trước sau,

Không đi mà đến, không cầu mà nên.

     Cần chi vất vả bon chen,

Không làm mà vẫn ấm êm, vuông tròn ...

2. Những giai đoạn, những chặng đường trên lộ trình đó

Từ nhiều năm nay, tôi đã hình dung ra được các chặng đường trên con đường Huyền nhiệm tâm linh, nhờ đọc chương 38 của đức Lão Tử.

Chương 38 có một đoạn sau đây:

Hễ ĐẠO mất nặng tình với ĐỨC,

ĐỨC không còn, lục tục theo NHÂN;

Hết NHÂN, có NGHĨA theo chân,

NGHĨA không còn nữa, thấy thuần LỄ NGHI.

Nên NGHI LỄ là chi khinh bạc,

Cũng là mầm loạn lạc chia ly;

Bề ngoài rực rỡ uy nghi,

Bề trong tăm tối, ngu si ngỡ ngàng.

Nên quân tử chỉ ham đầy đặn,

Chứ không ham hào nhoáng phong phanh;

Chỉ cần thực chất cho tinh,

Không cần bóng bẩy lung linh bên ngoài.

Bắc cân khinh trọng cho tài,

Biết đường ôm ấp, biết bài rẻ khinh.

Nghiên cứu kỹ chương này, tôi thấy đức Lão Tử đã cho biết từ xưa, đến nay, tôn giáo đã suy thoái qua 5 giai trình:

ĐẠO ⇨ ĐỨC ⇨ NHÂN ⇨ NGHĨA ⇨ LỄ

Đạo là giai trình cao nhất. Lễ là giai trình thấp nhất.

Tôi liền đặt ngược lại vấn đề: Muốn tiến tới Trời, tới Đạo, chúng ta cũng phải băng qua 5 giai trình:

LỄ ⇨ NGHĨA ⇨ NHÂN ⇨ ĐỨC ⇨ ĐẠO

Từ nhiều năm nay, tôi đã cụ thể hóa 5 giai trình trên, bằng cách gắn liền chúng, phối hợp chúng với các tầng lớp tương ứng trong con người, và với các hiện tượng đạo giáo. Và như vậy, con đường huyền nhiệm tâm linh sẽ có 5 giai trình, 5 chặng đường từ thấp đến cao, từ gần đến xa.

1. Chặng đường thứ nhất: Chặng đường LỄ

Chặng đường LỄ, hay NGHI LỄ này tương ứng với giác quan, với thân thể, tứ chi, bá hài.

Về phương diện tôn giáo, nó bao quát hết mọi hình thức LỄ NGHI (Formes extérieures du culte), thanh âm, hương sắc…

Về phương diện tu trì, nó bao quát hết mọi phần động công, tĩnh công, có liên quan đến giác quan và cơ thể.

Chặng đường này là chặng đường thấp nhất, dễ nhất trên con đường tu luyện.

Người đạo sĩ chỉ cần làm sao làm chủ được thân xác, ngũ quan, đừng để cho những thú vui giác quan làm tản thần, hao khí, đừng để cho chúng buông lung, làm cho tâm hồn trở nên bất định, không còn hoàn toàn chuyên chú được vào công trình trọng đại nhất, đó là thực hiện THIÊN CHÂN.

Chính vì vậy mà nơi chương 12 Đạo Đức Kinh, đức Lão Tử viết:

Sắc, năm màu là ta choáng mắt,

Thanh, năm cung ngây ngất lỗ tai;

Năm mùi tê lưỡi nếm sai,

Ruổi rong săn bắn, lòng người hóa điên.

Của, hiếm có ngả nghiêng nhân đức,

Khinh giác quan giữ chắc lòng son;

Thánh nhân hiểu lẽ mất còn…

2. Chặng đường thứ hai: Chặng đường NGHĨA

Chặng đường thứ hai là Chặng đường NGHĨA hay NGHĨA LÝ. Chặng đường này gắn liền với óc não, với tiểu trí.

Về phương diện Đạo giáo, nó bao quát hết mọi GIÁO LÝ, TÍN ĐIỀU (dogmes).

Về phương diện tu trì, nó bao quát hết mọi công trình suy tư, học hỏi. Người đạo sĩ phải học, phải hỏi để biết đạo mình, đạo người, để mở rộng kiến văn, kiến thức, nhưng đừng bao giờ nên có thái độ khép kín, thái độ bất tương dung. Nhất là phải nhận chân được rằng đa số tín lý, giáo điều của các đạo giáo thường chỉ có giá trị qui ước, tương đối. Chính vì vậy mà đừng bao giờ nên vì giáo lý, tín điều mà làm thương tổn niềm hòa khí, lòng bác ái, vị tha.

Đức Lão Tử thực ra không coi trọng cái tiểu học, tiểu trí. Nơi chương 29 Đạo Đức Kinh, Ngài viết:

Dứt bỏ thánh, khinh thường tiểu trí,

Trong dân gian lợi sẽ gấp trăm;

Nơi chương 30, Ngài viết:

Rũ tục học, sẽ quên lo lắng,

Dạ với ơi, khác đặng bao lăm…

Nơi chương 48, Ngài viết:

Học nhiều càng lắm rườm rà,

Càng gần Đạo cả, càng ra đơn thuần.

Giản phân rồi lại giản phân,

Tần phiền rũ sạch còn thuần Vô Vi…

3. Chặng đường thứ ba: Chặng đường NHÂN

Chặng đường này tương ứng với Trung Não (diencéphal) gồm các Thể Lam (Thalamus), Thể Hạ Lam (Hypothalamus) và Não đế (Mésencéphale và myélencephale), nghĩa là với TINH PHÁCH, với Phần Âm của Nhân tâm. Theo khoa học hiện đại, thì các Thể Lam, Thể Hạ Lam và Não đế có liên quan nhiều đến vấn đề cảm giác, cảm xúc. Chính vì thế mà tôi nghĩ rằng nơi đây hàm chứa thất tình, lục dục.

Về phương diện tôn giáo, giai trình này tương ứng với các giới luật tu trì, với luân lý.

Giai đoạn này chính là giai đoạn tẩy tâm, theo từ ngữ Dịch kinh, hay là hàng phục kỳ tâm, theo từ ngữ Kim Cương kinh. Nó tương ứng với công trình luyện tinh hóa khí của Lão giáo.

Ở giai trình này, người đạo sĩ phải học chế ngự phàm tâm, chế ngự thất tình, lục dục…

Chương 48, Lão Tử viết: «Vi Đạo nhật tổn.» . Thế nghĩa là, nếu chúng ta muốn đi tìm Đạo, tìm Trời chúng ta phải đi vào con đường rũ bỏ:

- Chúng ta phải rũ bỏ lòng tư kỷ, tư dục.

- Chúng ta phải từ bỏ lòng ham lợi, ham danh.

- Chúng ta phải rũ bỏ tà tâm, tà niệm.

- Chúng ta phải rũ bỏ tất cả những gì làm xao xuyến tâm hồn, làm mất sự tĩnh lãng của tâm hồn.

- Chúng ta phải rũ bỏ hết mọi nhân dục.

Lý Long Uyên cho rằng: «Khi mà nhân dục đã hủy hết, thiên lý sẽ trở nên thuần hoàn. Khi mà tính đã yên như ngọc lưu ly không còn vấn vương một chút chi ô nhiễm, không còn bợn một chút chi nhơ bẩn, lúc ấy bản thể sẽ hiện ra sáng láng, cái chân tu tâm tu tại, cái bản lai diện mục của chúng ta sẽ hiển lộ ra rõ ràng, và lúc ấy Vô Cực Chân Nhân mới để lộ dung quang.»

Chương 50, đức Lão Tử viết:

Nẻo đường sống chết đôi nơi

Bên nào sống chết cũng thời mười ba.

Kiếp phù sinh phôi pha tàn úa,

Truy kỳ nguyên cũng có mười ba;

Kiếp người tàn úa phôi pha,

Chung qui là tại quá ưa hưởng đời…

Lý Long Uyên bình rằng: «Căn do chết chóc có 13: Đó cũng chính là thất tình lục dục. Đối với người tu, thì đó là cửu đưa vào cõi sống, đối với người phóng túng, thì đó là cửu đưa vào cõi chết. Muốn biết một người hướng về sống chết ra sao, chỉ cần xem người ấy sử dụng tấm thân ra sao…»

Như vậy, nếu phóng túng dục tình, để cho thất tình lục dục làm băng hoại tấm thân, sẽ đi vào cõi chết.

Nếu biết tu tâm, luyện khí, hàm dưỡng tính tình, bảo toàn được tinh hoa của trời đất, sẽ trở thành Chân nhân, sẽ trường sinh cùng trời đất. Trường sinh đây phải hiểu về phương diện tâm thần. Đức Lão Tử cũng đã nói:

«Tử nhi bất vong giả thọ.» (Chết vẫn còn, là thọ muôn đời). (Đạo Đức Kinh, ch.33)

Nơi chương 26, Ngài cũng viết:

Buông tuồng là mất căn nguyên,

Lo toan trăm mối là quên mất Trời.

, (Khinh tắc thất căn, táo tắc thất quân…)

4. Chặng đường thứ tư là chặng đường ĐỨC

Đức là gì? Đức đây chính là vẻ sáng của Thượng Đế, của Đạo. Giai đoạn này tương ứng với Hồn, với Nguyên khí trong con người. Lúc này người tu Đạo y như đã vào được cung trời Chân Thanh.

Về phương diện Đạo giáo, giai đoạn ĐỨC này tương ứng với đời sống hồn nhiên tiêu sái. Thiên Chúa giáo dùng chử Ân Sủng, chữ Thiên ân để mô tả tình trạng con người lúc nầy. Mà Ân Sủng, mà Thiên ân chữ Pháp là Grâce. Grâce chính là Duyên dáng. Lúc này, nguồn mạch linh thiêng sống động đã bắt đầu tung tỏa vào trong tâm hồn con người, làm cho con người trở nên hồn nhiên hơn, sảng khoái hơn, duyên dáng hơn, và đã bắt đầu tỏa ra được một thần lực nào đó để cảm hóa người khác… Cuộc sống trở thành một cuộc sống vui, sống hồn nhiên, sống nghệ thuật.

Về phương diện tu trì, đây chính là giai đoạn luyện khí hóa thần. Mà luyện khí hóa thần chính là thanh lọc dần mãi cho hết tà tâm tà niệm, là tĩnh định để đi đến chỗ thanh tĩnh.

Người tu đạo, khi lên tới giai trình này sẽ thấy:

- Lòng thanh tĩnh,

- Tâm thần sảng khoái,

Tiên học diệu tuyển (tr.198) có câu: «Tức điều, tâm tĩnh khả dĩ nhập đạo.» 調 . (Thở đều, tâm tĩnh có thể vào Đạo.)

«Nhân năng thường thanh tĩnh, thiên địa tất giai qui.» (Người mà luôn thanh tĩnh được, trời đất ắt chầu về.) [Sđd, tr.27]

Người xưa cũng nói: «Thần tiên vô biệt pháp, Chỉ sinh hoan hỉ, mạc sinh sầu.» , , (Thần tiên phép lạ nào đâu; Chỉ sinh vui vẻ, chớ sầu chẳng sinh.) [Sđd, tr. 311]

Thế tức là đã «Thánh» thì không «Sầu»; Đã «Sầu» thì không «Thánh».

Đạo Đức Kinh nơi chương 38 viết:

Người đức cả, coi thường tục đức,

Thế cho nên thơm phức hương nhân.

Phàm phu nệ đức phàm trần,

Cho nên xơ xác thêm phần xác xơ…

Người đức cả, vô vi khinh khoát,

Kẻ phàm phu lao tác tây đông…;

Cũng có thể dùng chương 52 để mô tả những đại đức trên như sau:

     Âm thầm ấp ủ tấc sen,

Một đời trần cấu, chẳng mòn mỏi ai,

     Mặc ai đày đọa hình hài,

Một đời tất tưởi, phí hoài tấm thân…

     Quang minh là thấu vi phân,

Cương cường là biết giữ phần mềm non.

     Hãy dùng ánh sáng ngàn muôn,

Đem về soi tỏ gốc nguồn chói chang.

     Thế là thoát mọi tai ương,

Thế là biết sống cửu trường vô biên.

5. Chặng đường thứ năm: Chặng đường ĐẠO.

Chặng đường Đạo; cũng là đích điểm. Đây là giai đoạn huyền đồng, sống hợp nhất với trời với đạo. Lão giáo gọi thế là: Vô Vi, là Đắc Nhất, là Thủ trung bão nhất, Trí hư cực thủ tĩnh đốc, là Đắc Đạo…

Tới đây là thành tiên, đắc đạo, là thành Phật, thành Thánh. Tới đây là đạt tới Đạo, tới Bản thể tuyệt đối, thực hiện được Bản Lai diện mục, trở về với Thiên Tâm, với Trạng thái thuần phác nguyên thủy…

Đại Thừa Chân Giáo nơi trang 56, cho rằng lúc này là lúc linh hồn con người phá được Thiên Môn để nhập vào Thượng Thanh Cung.

Mà Thiên Môn chính là Nê Hoàn Cung, chính là Cái Khiếu Nê Hoàn Cung. Và Thượng Thanh chính là Nguyên Thần.

- Đây là giai đoạn huyền đồng, lúc mà các vị Chân Nhân đều gặp nhau trong Bản Thể Tuyệt đối của Thượng đế.

- Đây là giai đoạn vô ngã, vô nhân, mà người xưa cho rằng Dịch kinh đã đề cập bằng hai câu trong quẻ Cấn: «Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân.» , . , . Khi dịch bộ Kinh Dịch, tôi đã dịch cho hết sức thoát ý hai câu trên như sau:

  Cấn là dừng lại sau lưng,

(Dừng nơi chí thiện) quên thân, (quên người).

     (Bản thân khi đã quên rồi,)

Trong sân đi lại quên người lỗi chi.

- Đó là giai đoạn mà Thần Hội gọi là Vô Niệm. Người xưa cho rằng: Nhất Niệm bất sinh, toàn thể hiện. .

- Lão giáo mô tả giai đoạn này là: Hư Cực Tĩnh đốc hay Hư Tâm. Chương 10, Đạo Đức Kinh viết:

     Làm sao đem hết xác hồn,

Hòa mình với Đạo chẳng còn lìa xa.

     Làm sao giữ vẹn tinh hoa,

Sống đời thanh thản như là Anh Nhi.

     Làm sao rũ sạch hà tì,

Gương lòng vằng vặc, quang huy vẹn tuyền.

Nơi chương 20, đức Lão Tử có mô tả trạng huống tâm thần của người đắc Đạo, và kết luận người đắc đạo khác người thường vì không còn rời xa MẸ THIÊN NHIÊN. Ngài viết:

     Người vui như hưởng cỗ bàn,

Vui như trẩy hội đăng đàn tiết xuân.

     Riêng ta nín lặng tần ngần,

Như tuồng trẻ nít, không phân biệt gì.

     Ta ngơ ngẩn biết đi đâu tá,

Người giàu sang, ta há bị quên;

     Lòng ta ngu độn thấp hèn,

Người đời sáng suốt sao riêng ta đần.

     Người xét nét, biện phân mọi lẽ,

Chỉ riêng ta quạnh quẽ trông suông;

     Mênh mang trên mặt trùng dương,

Mặc cho gió cuốn sóng vương không ngừng.

     Ai cũng có chỗ dùng ích lợi,

Chỉ riêng ta thô kệch ương hèn.

     Nay ta sống khác trần gian,

Vì không xa Mẹ muôn ngàn thụ sinh ...

3. Ít nhiều tư tưởng chỉ nam khái quát.

Sau khi phác họa ra con đường huyền nhiệm tâm linh, hay là con đường hồi quang phản chiếu, đi vào Tâm mà tìm Đạo tìm Trời của Lão giáo, ta thấy con đường này chẳng qua là con đường Qui Nguyên Phản Bản, con đường Phản Phác Hoàn Thuần mà Á Đông thường đề cập tới. Đây cũng chính là con đường Hoàn Thiện, con đường Trung Dung mà Khổng Mạnh thường đề cập tới.

Chu Hi, khi chú thích chương I Trung Dung đã viết:

     Những học giả muốn tìm Đạo ấy,

Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai;

     Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,

Căn lành sẵn có, đồng thời khuếch sung.

Mạnh Tử viết:

     «Cả vạn vật ở trong ta đó,

Quay về ta, ta cố tinh thành;

     Kiện toàn hoàn thiện tinh anh,

Vui nào hơn được vui mình đang vui»

- Theo đức Lão Tử, thì con đường huyền nhiệm tâm linh, chẳng qua là con đường phản phác hoàn thuần, rũ bỏ phù phiếm trở về với tinh hoa. Nơi chương 19 Ngài viết:

Ra chi phù phiếm vẻ văn,

Cốt sao nắm giữ được phần tinh hoa.

Hiển dương Đạo, sống cho phác thiệt,

Ít đam mê, và ít riêng tây.

- Muốn trở về với Đạo, với Trời, phải sửa sang cho hết những gì chếch mác dở dang nơi con người. Thiết tưởng đó là một định lý mà chắc chắn đạo giáo nào cũng phải chấp nhận.

Nơi chương 22 Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết:

Bao dang dở làm cho tươm tất,

Bao cong queo hãy nắn cho ngay;

Hãy san chỗ trũng cho đầy,

Cũ càng đổi mới, mới ngay tức thì.

Đạm thanh sẽ thỏa thuê đầy đủ,

Phiền toái nhiều, trí lự ám hôn;

Thánh nhân một dạ sắt son,

Hòa mình với Đạo, treo gương cho đời.

Ít phô trương, (nhưng) rạng ngời sáng quắc,

Chẳng khoe khoang, (nhưng) vằng vặc trăng sao.

Chẳng vênh váo, vẫn cao công nghiệp,

Chẳng huênh hoang ngồi tít tầng cao;

Không tranh ai nỡ tranh nào,

Lời người xưa nói nhẽ nào sai ngoa ....

Bao dang dở làm cho tươm tất,

Tươm tất rồi ắt sẽ về Ngài ....

- Điều quan trọng nhất của đời sống vẫn là giữ sao cho vẹn Thiên chân, đừng để ngoại cảnh làm cho hư hạo phá tán.

Nơi chương 28 Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết:

     Thiên chân phân tán, vãi vương,

Sẽ thành đồ đạc để nương, để dùng;

     Thánh nhân nếu lâm vòng hữu dụng,

Bất quá làm trưởng thượng bách quan;

     Mới hay phép lớn mênh mang,

Không chia, không cắt, vẹn toàn mới hay ...

- Hơn nữa người tu đạo cũng nên sống thuần phác, thao quang ẩn tích. Nơi chương 56, đức Lão Tử viết:

     Biết thời xẻn tiếng, xẻn lời,

Những người không biết thường thời huênh hoang.

     Âm thầm đóng khóa ngũ quan,

Mà cho sắc sảo, mà san tần phiền ...

     Hòa mình trong đám dân đen,

Cho mờ ánh sáng, cho nhem phong trần.

     Ấy là đạo cả huyền đồng ...

Nơi chương 8 ĐĐK, đức Lão Tử nói:

Người trọn hảo giống in làn nước,

Nuôi muôn loài chẳng chút cạnh tranh;

Ở nơi nhân thế rẻ khinh,

Nên cùng Đạo cả, mặc tình thảnh thơi.

Người trọn hảo, chọn nơi ăn ở,

Lòng trong veo cố giữ đức nhân;

Những là thành tín nói năng,

Ra tài bình trị chúng dân trong ngoài.

Mọi công việc an bài khéo léo,

Lại hành vi mềm dẻo hợp thời;

Vì không tranh chấp với ai,

Một đời thanh thản ai người tranh ta ...

Nhìn bao quát lại năm chặng đường huyền nhiệm tâm linh này, ta sẽ thấy nó đi từ biên cương thân xác, giác quan hình hài, băng qua óc não, phách, hồn, vào tới Nê Hoàn, tới Tâm khảm nơi Đạo, nơi Trời ngự trị.

Bến chặng đầu, có thể gọi là tu luyện hình hài và tâm hồn mà đạo gia, tiên gia thường gọi là tu hữu vi, hay tu mệnh.

Chặng sau cùng, chính là giai đoạn huyền đồng, sống phối kết với Đạo với Trời, giai đoạn Ngưng thần.

Hư tâm, mà Đạo gia, Tiên gia gọi là tu vô vi, hay tu tính. Tất cả các giai trình hợp lại thời là Tính mệnh song tu, vạn thần khuê chỉ, theo từ ngữ của Doãn Chân nhân, tác giả bộ Tính mệnh khuê chỉ.

Trên đây tôi đã nói: Thiên Nhãn (tức là Thái Cực) và hai con mắt (tức là Âm Dương) trong con người hợp lại thành một hình tam giác đều.

1. Từ Thiên Nhãn ra mắt hữu, từ mắt hữu sang mắt tả, từ mắt tả trở về Thiên Nhãn, là toàn thể vòng Đại Chu Thiên là toàn thể vòng Dịch.

2. Từ Thiên Nhãn ra mắt hữu, là con đường phóng ngoại con đường của các Linh Quang giáng thế, giáng phàm.

3. Từ mắt phải sang mắt trái, tượng trưng cho con đường hồng trần mà mọi người chúng ta phải băng qua, để mà phục vụ, để mà thương yêu, để mà giúp đỡ, để mà bao bọc đồng loại, để mà làm các nhiệm vụ đối với gia đình, quốc gia xã hội, với giang sơn tổ quốc, với toàn thể nhân quần…

4. Từ mắt trái trở về Thiên Nhãn chính là con đường HUYỀN NHIỆM TÂM LINH, con đường QUI NGUYÊN PHẢN BẢN, con đường HỒI QUANG PHẢN CHIẾU, con đường PHẢN PHÁC HOÀN THUẦN, mà tôi vừa phác họa lại cùng quí vị với các giai trình.

Nói rõ ra thế, để quí vị hiểu tại sao còn nhiều vấn đề mà bài thuyết trình này chưa đề cập tới…

- Trong khi trình bày về 5 giai trình này, quí vị đã thấy tôi hoặc là trình bày một cách rõ ràng, hay là đề cập tới một cách hàm ngụ, mấy ý niệm sau đây:

+ TINH TIẾN,

+ VƯƠN VƯỢT,

+ RŨ BỎ,

+ GIẢN DỊ HÓA MÃI MÃI để trở về tinh hoa, thuần phác.

Trang Tử nơi thiên Đại Tông Sư cũng có chủ trương tương tự như vậy. Và đây là đại khái tư tưởng của Trang Tử.

Đời trần thế là đời mộng ảo,

Tỉnh với mê lộn lạo khác chi;

Tử sinh như ở với đi,

Như thay hình tướng có chi bận lòng…

Dù Nam, Bắc, Tây, Đông cũng vậy,

Trời bảo sao ta hãy vui theo;

Mặc cho ngoại cảnh xoay chiều,

Giữ lòng Tạo Hóa khinh phiêu mặc tình…

Đem thân gửi mênh mông bát ngát,

Thời thân này mất mát làm sao;

Muốn tìm ra Đạo chí cao,

Mà không suy tưởng lẽ nào tìm ra,

Hãy thâu lượm tinh hoa sử sách,

Hãy khơi tung nguồn mạch đáy lòng;

Hư Vô khi đã khai thông,

Rồi ra sẽ được Huyền đồng chẳng sai.

Tìm Trời phải quên đời quên cảnh,

Quên phù sinh ảo ảnh bên ngoài;

Tâm hồn khi hết pha phôi,

Mới mong rực rỡ ảnh trời hiện ra.

Đã thấy Đạo đâu là kim cổ,

Hết cổ kim vào chỗ trường sinh;

Ham sinh thời lại điêu linh,

Phù sinh chẳng chuộng, thần linh ấy là.

Hãy cố gắng vượt qua nhân nghĩa,

Hãy quên đi nghi lễ của đời;

Quên mình, quên cả hình hài,

Thông minh trí tuệ gác ngoài tâm linh.

Hãy hợp với vô hình, vô tượng,

Cùng Đại Thông vô lượng sánh đôi;

Thế là được Đạo được Trời,

Thoát vòng biến hóa muôn đời trường sinh.

Ai chỉ vẽ sự tình sau trước,

Ấy là Thầy ta, đại lược cho ta;

Thầy ta muôn vật điều hòa,

Mà nào kể nghĩa với là kể ơn…

Ban phúc trạch cho muôn thế hệ,

Mà chưa hề lấy thế làm nhân;

Trường tồn đã mấy muôn năm,

Mà chưa hề thấy có phần già nua…

Thầy ta chở cùng che trời đất,

Lại ra tay điêu khắc muôn loài;

Thế mà một mực thảnh thơi,

Chưa hề có bảo là tài là hay…

(Đại tông sư, các đoạn G,H,I,K).

 

III.

Trong bài đức Lão Tử và con đường huyền nhiệm tâm linh này, tôi đã trình bày xong cùng quí vị 3 vấn đề:

- Đức Thái Thượng Lão Quân là ai?

- Đức Lão Tử là ai?

- Con đường huyền nhiệm tâm linh mà Ngài đã vạch ra cho chúng ta là thế nào?

Dĩ nhiên là bài thuyết trình của tôi còn có nhiều thiếu sót, và tôi cũng hết sức mong đợi được quí vị ưu ái bổ khuyết cho. Nhưng dù sao, tôi cũng đã hết sức cố gắng, và hết sức thành khẩn trong khi trình bày vấn đề.

Ước mong bài thuyết trình bày giải tỏa được phần nào những thắc mắc của quí vị về đức Thái Thượng Lão Quân, và về đức Lão Tử, cũng như bồi bổ thêm được phần nào cho những sự hiểu biết về đạo giáo, và kinh nghiệm tâm linh của quí vị.

Kính thưa quí vị,

Kỷ niệm ngày thánh đản của một vị Giáo chủ bao giờ cũng là điều tốt. Nhưng học hỏi về đạo của Ngài lại còn tốt hơn, nếu lại đem đạo ấy ra mà thi hành thì lại càng tốt hơn nữa.

Chính vì vậy mà, thay vì trình bày nguyên về thân thế đức Lão Tử, tôi đã mạo muội toát lượt tinh hoa học thuyết, tinh hoa đạo giáo của Ngài.

Chính đức Lão Tử cũng ước mong chúng ta hiểu Ngài, bắt chước Ngài. Nơi chương 70 Đạo Đức Kinh, Ngài viết: «Tri Ngã giả hi. Tắc Ngã giả quí.» , (Kẻ hiểu biết ta thời ít. Kẻ bắt chước ta thời quí.)

Ước gì quí vị đứng trong hàng ngũ những người hiếm, người quí ấy.

Ước gì chúng ta sẽ bước vào và sẽ tiến mãi trên con đường THỰC HIỆN THIÊN CHÂN mà từ ngàn xưa đức Lão Tử đã vạch ra cho nhân quần.

Ước gì chúng ta sẽ: «Đồ nan ư kỳ dị, vi đại ư kỳ tế” , theo đúng chủ trương của đức Lão Tử nơi chương 63 Đạo Đức Kinh. Và tôi cũng xin mượn luôn lời đức Lão Tử nơi chương 63 để làm lời kết thúc cho bài thuyết trình này như sau:

     Thảnh thơi ta sống thảnh thơi,

Đời ta chẳng chút lôi thôi tần phiền.

     Đời ta thơm phức hương tiên,

Bao nài lớn nhỏ, sá xem ít nhiều,

     Cởi giây thù oán chẳng đeo,

Ta đem đức độ, đổi điều gian ngoan.

     Khó gì ta cũng cứ làm,

Bắt đầu từ dễ chuyển sang khó dần.

     To gì ta cũng chẳng cần,

Bắt đầu từ nhỏ ta lần sang to.

     Đời người vạn sự gay go,

Đều đi từ dễ lần mò mãi ra.

     Những điều cao đại xưa giờ,

Đều từ nhỏ nhặt đem vo cho thành.

     Cho nên những bậc tinh anh,

Chẳng cần lớn lối vẫn dành cao sang.

     Những ai hứa hẹn muôn ngàn,

Tình suông rồi sẽ bẽ bàng đơn sai.

     Những ai khinh thị cuộc đời,

Càng ngờ dễ dãi, càng vời khó khăn.

     Cho nên những bậc thánh nhân,

Biết e cái khó, khó khăn chừa người…

(Đạo Đức Kinh, chương 63)

Đề tài thuyết trình tại: Hội trường Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý trong ngày lễ thánh đản đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN rằm tháng 2 Định Tị (3/4/1977).

.PHỤ LỤC

 

I. Lược sử đức Lão Tử theo Tư Mã Thiên

Nguyên văn chữ Hán:

老 子 者, 楚 苦 縣 厲 鄉 曲 仁 里 人 也 姓 李 氏, 名 耳, 字 伯 陽 諡 曰 聃 周 守 藏 室 之

史 也 孔 子 適 周, 將 問 禮 於 老 子 老 子 曰: «子 所 言 者, 其 人 與 骨 皆 已 朽 矣,

其 言 在 耳 且 君 子 得 其 時 則 駕, 不 得 其 時 則 蓬 累 而 行 吾 聞 之,

良 賈 深 藏 若 虛,君 子 盛 德, 容 貌 若 愚 去 子 之 驕 氣 與 多 欲, 態 色 與 淫 志,

是 皆 無 益 於 子 之 身 吾 所 以 告 子, 如 此 而 已

孔 子 去 謂 弟 子 曰: «鳥 吾 知 其 能 飛 魚 吾 知 其 能 游 獸 吾 知 其 能 走 走 者

可 以 為 罔, 游 者 可 以 為 綸, 飛 者 可 以 為 矰 至 於 龍, 吾 不 能 知 其 乘 風 雲

而 上 天 吾 今 日 見 老 子 其 猶 龍 耶

老 子 修 道 德 其 學 以 自 隱 無 名 為 務 居 周 久 之,見 周 之 衰, 乃 遂 去 至 關,

關 令 尹 喜 曰: «子 將 隱 矣, 強 為 我 著 書 於 是 老 子 乃 著 書 上 下 篇, 言 道

德 之 意 五 千 餘 言, 而 去, 莫 知 所 終. 或 曰 老 萊 子 亦 楚 人 也 著 書 十 五 篇,

言 道 家 之 用, 與 孔 子 同 時 云 蓋 老 子 百 六 十 餘 歲, 或 言 二 百 餘 歲 以 其

修 道 而 養 壽 也.

西 ,

, .

☸ Phiên âm:

Lão Tử giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng Tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử. Lão Tử viết: «Tử sở ngôn giả, kỳ nhân dữ cốt giai dĩ hủ hĩ. Độc kỳ ngôn tại nhĩ. Thả quân tử đắc kỳ thời, tắc giá; bất đắc kỳ thời, tắc bồng lụy nhi hành. Ngô văn chi, lương cổ thâm tàng nhược hư; quân tử thịnh đức dung mạo nhược ngu. Khứ tử chi kiêu khí dữ đa dục, thái sắc dữ dâm chí. Thị giai vô ích ư tử chi thân. Ngô sở dĩ cáo tử như thử nhi dĩ.»

Khổng Tử khứ vị đệ tử viết: «Điểu ngô tri kỳ năng phi, ngư ngô tri kỳ năng du; thú ngô tri kỳ năng tẩu. Tẩu giả khả dĩ vi võng, du khả giả dĩ vi luân, phi giả khả dĩ vi tăng. Chí ư long, ngô bất năng tri kỳ thừa phong vân thượng thiên. Ngô kim nhật kiến Lão tử, kỳ do long da?»

Lão Tử tu đạo đức. Kỳ học dĩ tự ẩn vô danh vi vụ. Cư Chu cửu chi, kiến Chu chi suy, nãi toại khứ. Chí quan, quan lệnh Doãn Hỉ viết: «Tử tương ẩn hĩ, cưỡng vi ngã trứ thư.» Ư thị Lão Tử nãi trứ thư thượng hạ thiên, ngôn đạo đức chi ý, ngũ thiên dư ngôn, nhi khứ, mạc tri sở chung.

Hoặc viết: «Lão Lai tử diệc Sở nhân dã, trứ thư thập ngũ thiên, ngôn đạo gia chi dụng, dữ Khổng Tử đồng thời vân.»

Cái Lão Tử bách lục thập dư tuế, hoặc ngôn nhị bách dư tuế dĩ kỳ tu đạo nhi dưỡng thọ dã.

Lão Tử ẩn quân tử dã. Lão Tử chi tử danh Tông. Tông vi Ngụy tướng phong ư Đoạn Can. Tông tử Chú. Chú tử Cung. Cung huyền tôn Giả. Giả sĩ ư Hán Văn đế. Nhi Giả tử Giải vi Giao Tây vương Ấn thái phó, nhân gia ư Tề yên.

Thế chi học Lão Tử giả tắc chuyết Nho học. Nho học tắc chuyết Lão tử. Đạo bất đồng bất tương vi mưu. Khởi vị thị da? Lão Tử vô vi tự hóa, thanh tĩnh tự chính.

II. Lược sử Lão Tử theo Lão Tử Minh (Bia khắc chuyện Lão Tử)

☸ Nguyên văn chữ Hán:

老 子 姓 李 字 伯 陽 楚 相 縣 人 也. 春 秋 之 後 周 分 為 二 稱 東 西 君 晉 六 卿

專 征 與 齊 楚 並 僭 號 為 王 以 大 并 小 相 縣 虛 荒 今 屬 苦. 故 城 猶 在 在 賴

鄉 之 東 渦 水 處 其 陽 其 土 地 鬱 螉 高 敝 宜 生 有 德 君 子 焉. 老 子 為 周 藏

室 史.當 幽 王 時 三 川 實 震 以 夏 殷 之 季, 陰 陽 之 事 鑒 喻 時 王 孔 子 以 周

靈 王 廿 (混 元 作 二 十 一 ) 年 生. 至 景 王 十 年 年 十 有 七 學 禮 於 老 聃 計

其 年 紀 聃 時 以 一 百 餘 歲 聃 然 老 耄 也. 孔 子 卒 後 百 廿 九 年 或 謂 周 太

史 為 老 子 莫 知 其 所 終

第 二 段

其 二 篇 書 稱 天 地 所 以 能 長 且 久 者 以 不 自 生 也 厥 初 生 民 遺 體 相 續

其 死 生 之 義 可 知 也 或 有 谷 神 不 死 是 謂 玄 牝 之 言 由 是 世 之 好 道 者

觸 類 而 長 之 與 老 子 離 合 於 混 沌 之 氣 與 三 光 為 終 始 觀 天 作 讖 降 升

斗 星 隨 日 九 變 與 時 消 息 規 矩 三 光. 四 靈 在 旁 存 想 丹 田 太 一 紫 房 道

成 身 化 蟬 蛻 渡 世. 自 羲 農 以 來 為 聖 也 作 師 班 固 以 老 子 絕 聖 棄 智 禮

為 亂 首 與 仲 尼 道 違 述 漢 書 古 今 人 表. 檢 以 法 度 抑 而 下 之 與 楚 子 西

同 科 材 不 及 荀 卿 孟 軻. 二 者 之 論 殊 矣 所 謂 道 不 同 不 相 為 謀 也.

第 三 段

延 熹 八 年 八 月 甲 子 皇 上 尚 德 弘 道 含 閎 光 大 存 神 養 性 意 在 凌 雲 是

以 僭 心 黃 軒 同 符 高 宗 夢 見 老 子 尊 而 祀 之 于 時 陳 將 邊 韶 典 國 之 禮

材 薄 思 淺 不 能 測 度 至 人 辯 是 與 非 按 據 書 籍 以 為 老 子 生 於 周 之 末

世 玄 虛 守 靜 樂 無 名 守 不 德 危 高 官 安 下 位 遺 孔 子 以 仁 言 避 世 而 隱

居 變 易 姓 名 惟 恐 見 知 夫 日 以 幽 明 之 節 月 以 虧 盈 自 成 損 益 盛 衰 之

原 倚 伏 禍 福 之 門 天 道 惡 盈 而 好 謙 蓋 老 子 勞 不 定 國 功 不 加 民 所 以

見 隆 崇 于 今 為 時 人 所 以 享 祀 乃 昔 日 逃 祿 處 微 損 之 又 損 之 之 餘 昨

也 顯 虛 無 之 清 寂 云 先 天 地 而 生 乃 守 真 養 壽 獲 五 福 之 所 致 也 敢 演

而 明 之.

第 四 段

: 祿 .

. . 而作 .

. . .

. . .

. . . 退 .

. . .

. . . .

. .

Phiên âm:

ĐỆ NHẤT ĐOẠN

Lão Tử tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên. Lão Tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương. Khổng Tử dĩ Chu Linh vương trấp (Hỗn nguyên tác: nhị thập nhất) niên sinh. Chí Cảnh vương thập niên, niên thập hữu thất, học Lễ ư Lão Đam. Kế kỳ niên kỷ, Đam thời dĩ nhất bách dư tuế. Đam nhiên lão mạo dã. Khổng Tử tốt hậu bách trấp cửu niên, hoặc vị Chu thái sử vi Lão tử, mạc tri kỳ sở chung.

ĐỆ NHỊ ĐOẠN

Kỳ nhị thiên thư xưng: thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ bất tự sinh dã. Quyết sơ sinh dân, di thể tương tục, kỳ tử sinh chi nghĩa khả tri dã. Hoặc hữu Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn chi ngôn. Do thị thế chi hiếu đạo giả, xúc loại nhi trưởng chi, dĩ Lão Tử ly hợp ư hỗn độn chi khí, dữ tam quang vi chung thủy, quan thiên tác sấm, giáng thăng đẩu tinh. Tùy nhật cửu biến, dữ thời tiêu tức, qui củ tam quang. Tứ linh tại bàng, tồn tưởng đan điền. Thái nhất tử phòng, đạo thành thân hóa. Thiền thoát độ thế. Tự Hi Nông dĩ lai, vi thánh giả tác sư. Ban Cố dĩ Lão Tử tuyệt thánh khí trí lễ vi loạn thủ, dữ Trọng Ni đạo vi, thuật Hán thư cổ kim nhân biểu, kiểm dĩ pháp độ, ức nhi hạ chi, dữ Sở Tử Tây đồng khoa, tài bất cập Tuân Khanh Mạnh Kha. Nhị giả chi luận thù hĩ. Sở vị đạo bất đồng bất tương vi mưu dã.

ĐỆ TAM ĐOẠN

Diên Hi bát niên, bát nguyệt Giáp Tí, Hoàng thượng, thượng đức hoằng đạo, hàm hoằng quang đại, tồn thần dưỡng tính, ý tại lăng vân. Thị dĩ tiềm tâm Hoàng Hiên, đồng phù Cao tông, mộng kiến Lão tử, tôn nhi tự chi. Vu thời Trần tướng Biên Thiều, điển quốc chi lễ, tài bạc tư thiển, bất năng trắc độ chí nhân, biện thị dữ phi, án cứ thư tịch, dĩ vi Lão Tử sinh ư Chu chi mạt thế, huyền hư thủ tĩnh, lạc vô danh, thủ bất đức, nguy cao quan, an hạ vị.

Di Khổng Tử dĩ nhân ngôn, tị thế nhi ẩn cư. Biến dịch tính danh duy khủng kiến tri. Phù nhật dĩ u minh vi tiết, nguyệt dĩ khuy doanh tự thành, tổn ích thịnh suy chi nguyên, ỷ phục họa phúc chi môn. Thiên đạo ố doanh nhi hiếu khiêm. Cái Lão Tử lao bất định quốc, công bất gia dân. Sở dĩ kiến long sùng vu kim, vi thời nhân sở dĩ hưởng tự, nãi tích nhật đào lộc xử vi, tổn chi hựu tổn chi chi dư tạc dã. Hiển hư vô chi thanh tịch, vân tiên thiên địa nhi sinh, nãi thủ chân dưỡng thọ, hoạch ngũ phúc chi sở trí dã. Cảm diễn nhi minh chi.

ĐỆ TỨ ĐOẠN

Kỳ từ viết: Ư duy huyền đức bão hư thủ thanh, lạc cư hạ vị, lộc chấp bất doanh, vi thằng năng trực, khuất chi khả oanh. Tam xuyên chi đối, thư phẫn tán trình. Âm bất điền Dương, thục năng trệ tính. Kiến cơ nhi tác, nhu giao xuất quynh. Phì độn chi cát tị thế ẩn thanh. Kiến bách di ngôn, đạo đức chi kinh. Ky thì vi dụ, tầm hiển suy minh. Thủ nhất bất thất, vi thiên hạ chính. Xử hậu bất bạc, cư thật hàm vinh. Kê thức vi trọng, kim ngọc thị khinh. Tuyệt thị khứ dục, hoàn qui anh nhi. Hạo nhiên lịch tải mạc tri kỳ tình. Phả vi pháp ngôn, tiên dân chi trình. Yêu dĩ vô vi. Đại hóa dụng thành, tiến thoái vô hằng. Thác tống kỳ trinh. Dĩ trí vi ngu, sung nhi bất doanh. Đại nhân chi độ, phi phàm sở đính. Cửu đẳng chi tự, hà túc lụy danh. Đồng quang nhật nguyệt, hợp chi ngũ tinh. Xuất nhập đơn lô, hô hấp chí tinh. Thế bất năng nguyên, Ngưỡng kỳ vĩnh sinh. Thiên nhân trật tế, dĩ chiêu quyết linh, tiện bỉ diên kỳ, lặc thạch thị tinh.

☸ Dịch:

I. Lão Tử tính lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ. Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng này là một cao nguyên cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân tài đức. Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua. Khổng Tử sinh năm 20 thời Linh vương. Đến năm Cảnh vương thứ mười, Khổng tử, mới 17 tuổi, đến học lễ với Lão Đam. Nếu ta tính tuổi, thì khi ấy Lão Đam đã hơn 200 tuổi. Đam nghĩa là đạo mạo, lão mạo. Có người quả quyết rằng, 129 năm sau khi đức Khổng mất Chu Thái sử Đam cũng chính là Lão tử. Nhưng không ai biết Ngài mất bao giờ.

II. Trong quyển sách chia làm hai thiên của ngài có chép: «Nếu trời đất trường cửu, chính là vì không vì mình sống.” Từ khi có loài người đến nay, thể xác nối tiếp nhau. Như vậy là biết ngài (Lão tử) nghĩ thế nào về tử sinh. Vì trong sách ngài có câu: «Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn.” cho nên những người yêu Đạo mới nhân đấy mà luận về Lão Tử như sau:

                                                                    Ngài cùng với Hỗn nguyên ly hợp,

Với tam quang, ngài vượt thời gian.

Trông trời, đoán vận trần hoàn,

Bảy vì tinh đẩu, nhẹ nhàng xuống lên.

 Cùng với ngày, biến thiên chín bận,

Tùy theo mùa, khi giảm khi tăng.

Tinh huy, qui củ chuẩn thằng,

Tứ linh, tứ tượng vốn hằng chầu bên.

Ngưng thần khí, đơn điền não bộ,

Cung nê hoàn mấy độ tiêu dao.

Sánh vai Thái nhất ra vào,

Đạo thành, thân thoát, từ bao độ đời.

Từ Hi, Nông, đến thời hiện tại,

Bao thánh hiền, ngài mãi là thầy...

Ban Cố vì thấy Lão Tử khinh thường kiến văn, coi nghi lễ là đầu mối loạn, không cùng đường lối với đức Khổng, nên khi lập đồ biểu liệt kê nhân vật cổ kim trong Hán thư đã hạ Lão Tử xuống ngang hàng với Tử Sản nước Sở, và dưới hàng Mạnh tử, Tuân tử. Như vậy hai bên (phe của Ban Cố, phe của Lão giáo) có quan niệm khác nhau, chính là vì «khác đạo với nhau thì không cộng tác với nhau được.»

III. Năm Diên Hi thứ 8, tháng 8, ngày Giáp tý, Hoàng thượng, vì chuộng đức, ước mong tiến tới chỗ tinh hoa cao đại, nên đã tồn thần dưỡng tính, để vươn lên đến chốn cửu tiêu. Chính vì thế nên Ngài đã tiềm tâm học đạo Hoàng Hiên Ngài như Cao tông đã nằm mộng thấy Lão Tử nên đã tôn sùng và tế lễ Lão tử. Lúc này Biên Thiều tôi, đang làm tướng nước Trần, nên chủ sự cuộc tế lễ ở đây. Tôi tài hèn trí mọn không thấy hiểu được bậc chí nhân cũng không biết biện phân phải trái, nên chỉ dựa vào thư tịch mà chủ trương:

Đức Lão Tử sinh thời Chu mạt.

Yêu hư vô, mà bạn thanh nhàn,

Không cầu danh với thế gian,

Không ưa những thói phô phang đức tài.

Coi chức trọng là nơi nguy hiểm,

Vui sống trong chốn kém, chốn hèn,

Tặng cho đức Khổng lời khuyên,

Giã từ thế tục, lâm tuyền ẩn cư.

Thay họ mạc cũng như danh tánh,

Sợ đời hay, nên lánh chuyện đời.

Vừng dương sáng tối lần hồi,

Vầng trăng tròn khuyết đầy vơi tương tùy.

Thêm với bớt thịnh suy ấy gốc,

Và trên đời họa phúc theo nhau,

Trời kia nào thích đầy đâu,

Mà thương những kẻ gót đầu khiêm cung.

Theo Lão tử, lao lung vất vả,

Định giang sơn mấy nả mà mong?

Vì dân xin chớ kể công,

Công lênh rôt cuộc cũng không ích gì.

Ngài nay được tôn suy, sùng thượng,

Chính vì xưa chẳng tưởng công danh,

Một ngày một giảm công trình,

Sống trong hư tĩnh, siêu linh tuyệt vời.

Rằng ngài trước đất trời sinh xuất,

Chính vì ngài chẳng mất lòng son,

Thiên chân giữ được vẹn tròn,

Cho nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.

Nên tôi mạn mà ghi tiếp tục:

Đức độ ngài rất mực cao siêu,

Hư không, thanh tĩnh đến điều,

Ưa nơi thấp kém, chê chiều quang hoa.

Giây khi thẳng, thời đà thẳng dẵng,

Nhưng đem khoanh cũng chẳng ngại cong,

Trời làm chấn động ba sông,

Can vua, vả khiến cho lòng dân an.

Nếu Âm chẳng lăng loàn lấn át,

Át Dương kia, tan tác sao sinh?

Cơ suy vừa lộ mối manh,

Thời đà rũ áo, ẩn mình từ đây.

Người nài nỉ: ra tay sáng tạo,

Đạo đức kinh di cảo dạy đời.

Nhẹ nhàng chỉ trích đương thời,

Đem điều sáng sủa soi nơi mịt mùng.

Cùng Thái nhất thủy chung bầu bạn,

Treo cho đời gương sáng chính trung.

Dặn dầy, chân thực thời ưng,

Mỏng manh hào nháng thời không ngó ngàng.

Ưa cốt cách, bạc vàng rẻ rúng.

Bao dục tình chặn đứng mới nghe.

Trở về trạng thái Anh nhi,

Mái sương vượt quá hạn kỳ trần gian.

Hành tung ngài, khó toan, khó luận,

Luật gian trần chẳng bận niềm riêng,

Khinh phiêu phơi phới tự nhiên,

Vô vi, vô dục biến thiên mặc tình.

Tiến hay thoái phiêu linh tùy tiện,

Tùy thời cơ thiên biến vạn năng.

Xá chi kiến thức gian trần,

Dẫu đầy mà vẫn ngỡ rằng còn vơi.

Bậc đại nhân siêu thời xuất thế,

Kẻ phàm phu, hồ dễ mà hay.

Uổng công xếp hạng nọ này,

Miệng phàm hồ dễ xấu lây danh người.

Cùng nhật nguyệt chói ngời sáng láng,

Cùng ngũ tinh chiếu rạng quang huy.

Vào ra nơi chốn đan trì,

Huỳnh đình lên xuống muôn bề khinh phiêu.

Cùng lưu tục chẳng điều quyến luyến,

Dấu phong quang làm biến hình hài.

Chắt chiu ôm ấp tính trời,

Muôn nghìn biến hóa theo đòi thần minh.

Hô hấp khí khinh thanh thuần túy,

Trong trần hoàn hồ dễ ai hay,

Vĩnh sinh ấy chính là ngài,

Đời rằng ngài với đất trời trường sinh.

Vua tế tự linh đình bày biện,

Để oai ngài trình hiện muôn nơi,

Tôi nay muốn để tiếng Người.

Cho nên ghi tạc những lời ngợi khen.

LÃO TỬ BIẾN HÓA KINH  

Dịch nghĩa:

1. Những từ có trước đất trời,

Vui trong thái thủy tuyệt vời ngao du.

2.  Thung dung từ thủa thái sơ,

Khi còn chưa có bến bờ đục trong.

4. Tịch nhiên tiêu sái, (5.) vô song,

Trước trời, trước đất thung dung vui hòa.

Hai bề ẩn, hiện lại qua,

6.  Ẩn là Thái nhất, hiện ra là người.

Đục trong biến chuyển dòng đời,

Thần ngài mới mượn hình hài thế nhân.

7. Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,

Bảy hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.

8. Mượn nơi đất Sở giáng sinh,

Môi dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.

Có văn tam ngũ rõ ràng,

Hai vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;

9. Mũi hai sống, lỗ tai ba,

10. Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.

Thiên nhiên vô dục tính trời,

Vô vi ấy chính nết người ở ăn.

Giúp trời lại giúp thánh quân.

11. Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.

Đời người ẩn ước ly kỳ,

Biến thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.

12. Gặp khi vận nước nhiễu nhương,

Hôn quân vô đạo tìm đường ẩn thân,

Giã từ nước Sở, lánh trần,

Cưỡi con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,

Dặm Tần mù mịt nguồn cơn,

13. Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.

Tinh hoa trời đất gồm thâu.

14. Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.

            Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,

15. Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.

Âm dương mặc sức phân phôi,

Là hồn, là phách muôn loài thụ sinh.

16. Hư vô chưởng quản mặc tình,

Biến thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.

Bao trùm khắp tám phương trời,

Đất thời lo chở, trời thời lo treo.

17. Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,

Tinh huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.

Chư thần Lục Giáp nương hơi,

Càn khôn cũng mặc ý người ruổi rong.

18. Tứ thời chuyển biến thong dong,

Hai chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.

Tiêu phù cầm gọn nơi tay,

Chữ vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.

20. Lão quân sáng tối tùy nghi

Tồn vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.

21. Khuất thân, tiến thoái mặc tình,

22. Không gì thoát khỏi uy linh của người.

Đi vào nước lửa như chơi,

Dầu lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.

23. Gặp cơn bức bách chẳng sao,

Vương thương, vết tích tơ hào chẳng khi.

Trường sinh chẳng có hạn kỳ,

24. Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.

Sánh đôi mà vẫn đơn thân,

Cô đơn mà vẫn chẳng phần lẻ loi.

Ngài luôn gần gũi con người.

25. Không ai có thể sánh tài vô vi,

Chẳng ai mà chẳng phải tùy,

Người người đều dõi bước đi của ngài.

Hành vi Lão tử để đời,

26. Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.

27. Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,

Những điều biến hóa mung lung khôn lường.

Biết ta chín kiếp nhân lương,

28. Đời ta mà biết lối đường ta hay.

29. [Không dịch]

Ta là chín vị sau đây.

 

 

Họ

Tên Tự  

 

1. Lý

2. Lý

3. Lý

4. Lý

5. Lý

6. Lý

7. Lý

8. Lý

9. Lý

Lão Đam 老聃

Trung

Thạch

Thạch

Trạch

Nguyên

Nguyện

Đức

 

Nguyên Dương 元陽

Bá Dương

Bá Quang

Tử Quang

Tử Văn

Tử Trường

Tử Thủy

Tử Sinh

Bá Văn

 

 

. Ngài sinh cùng với Hư vô,

Tùy thời ly hợp trầm phù tiến lui.

Khi lui, nguyên thể tài bồi,

Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.

Trở Lại Mục Lục