Giảng minh bí mật tu luyện trong 'huyền diệu cảnh'

Tôi trước tới nay đọc được vài bộ sách đơn kinh của người xưa đắc đạo viết như : Tính mệnh khuê chỉ, Tham đồng khế, Chu dịch xiễn chân, Huyền diệu cảnh, Huệ mạng kinh.. đến nay đem so lại công trình tu luyện của mình thì thấy rằng thánh nhân chẳng gạt người bao giờ, mỗi lời đều là tận tiết bí chỉ, đem so lại với các sách khí công ngày nay thì thầm than làm sao mà người ta tu luyện mãi sao chẳng thành, lòng muốn sau này có điều kiện sẽ chú giải toàn bộ các đơn kinh đã từng xem qua, các bộ sách Tham đồng khế, Châu dịch xiển chân lời lẽ huyền bí cao xa, dùng dịch thuyết đạo, tôi tài hèn lẽ dịch chưa thông nên xem qua thì hiểu đôi phần chứ chưa thể giảng minh được, vả cũng chưa phải lúc cần giảng những điều quá cao xa nên gác lại sau này, trước lấy bộ Huyền diệu cảnh ra giảng minh , sau sẽ tính tiếp bộ Tính mệnh khuê chỉ, bộ huệ mạng kinh tôi có một phần chứ chẳng đủ nhưng xét lại ba bộ sau tận tiết đạo Kim đan, lại mỗi bộ có chỗ hay riêng bổ túc cho nhau, như huệ mạng kinh, huyền diệu cảnh bàn sâu về phép thái dược, luyện hoả tiến dương , còn Tính mệnh khuê chỉ bàn nhiều về huyền quan, phép hoán đổi mạch trở lại trẻ thơ, mỗi mỗi đều phải cậy có  khẩu quyết.nay nói ra với các bạn xem thấy chỗ khó trong tu luyện , nhưng kỳ thật cũng từ chổ phát minh ra huyền quan khiếu, thì từ ngộ lại dẫn tới ngộ, mỗi lúc mỗi phát hiện ra thêm những cái mới mà thôi. 

 Hỏi: -Làm sao được phép huyền diệu?
Ðáp: -Muốn biết tâm pháp huyền diệu phải có thầy truyền phép ấy, là trao lời khẩu quyết. Khẩu quyết là lời nói miệng truyền miệng với nhau đặng chỉ cho tột chỗ. Huyền diệu có nói tại Ðơn kinh chớ đâu. Vậy cho nên phải tìm kiếm minh sư chỉ bày tỏ rõ phép huyền diệu thì đại đạo thành được. Kim đơn kiết đặng, thánh thai cũng khá đặng, dương thần khá xuất, thì học Thiên tiên đại đạo sẽ thành Tiên, Phật được.
Tôi học đơn kinh hơn 20 năm mà còn chưa rõ thấu máy huyền diệu, nên không có hiệu nghiệm chi hết. Sau gặp người chí nhơn chỉ bày tôi mới rõ. Tôi lại suy xét thêm mấy năm nữa, mới rõ thấu huyền vi nhiệm mầu. Quả nhiên cũng đồng một lẽ với đơn kinh chẳng sai. Thì tôi mới hiểu phép tắc tu luyện.
Ðời thượng cổ, các thánh nhơn lấy lời nói mà truyền phép tu luyện cho nhau, chớ chẳng bày tỏ sự huyền diệu trong các đơn kinh xưa. Qua đời trung cổ, thánh nhơn có bày khẩu quyết nơi kinh sách mà chẳng dám nói ra. Còn đời hiện tại bây giờ, chẳng những các vì thánh nhơn để lời khẩu quyết trong kinh điển, mà lại còn vẽ hình đồ làm cho kẻ nào muốn tu cho thành linh đơn thì coi đơn kinh cho thiệt kỹ lưỡng, rồi cầu minh sư truyền cửu khiếu chánh chơn (chánh pháp nhãn tàng). Lo rửa lòng trong sạch, ra công mà tu luyện.
Đây là một đoạn hay cần phải nghiền ngẫm kỹ cho vững tâm đạo.

XXI. LUYỆN KỶ LUẬN
Tu luyện kim đơn, trước hết phải luyện kỷ (là sửa mình cho đầy đủ tinh, khí, thần).
Dù cho hành trú, tọa, ngọa (đi, đứng, nằm, ngồi) cũng chẳng quên việc luyện kỷ. Thứ nhứt đừng cho dâm niệm khởi động. Lại phải đoạn dứt những tình dục ta đã nhiễm khi trước. Muôn việc đều phải bỏ tuyệt hết. Phải bỏ cái tánh tham lam, giận hờn, sự ngây dại, tình ân ái, việc giàu sang, đường danh lợi. Luyện sao trong lòng đặng trong ngần như khí thái hư vậy. Một điểm tà niệm chẳng khởi, một mảy trần gian không nhuốm. Trong lúc luyện, hễ niệm tưởng, ấy là bịnh. Mà bịnh chẳng lành là tại nơi thuốc chẳng hay. Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác trì (là biết chậm).
Cho nên có lời nói như vầy: Muốn tu thân cho đặng làm khách trường sanh, thì phải luyện sao cho cái tâm tánh mình như cái tâm tánh của người đã chết rồi vậy.
-------------------------------
Luyện kỷ chẳng qua là việc đoạn dứt  trần lao, để chuyên tâm tu luyện mà thôi. Nếu không vậy thì sẽ tu luyện trồi sụt, được 3 hôm thì bỏ 2 hôm, chung cuộc khó tiến bộ.

 XXII. ÐIỀU TỨC LUẬN
Nghĩa điều tức khó nói cho rõ đặng. Người học đạo hễ mạnh mẽ siêng năng tập luyện thì ngày sau tự nhiên biết rõ đặng.
Ðiều tức là cái tâm và hơi thở chẳng lìa nhau, phải đi cặp với nhau hoài. Khi thời giờ đến,

thì thần nó biết. Nếu không biết là bởi tâm tức xa nhau.
Ðiều là cách thở lúc tấn dương hỏa, thối âm phù, khi mộc dục, ôn dưỡng. Một hơi thở ra và một hơi hít vô, gọi là hơi thở nhứt tức. Cái tâm và cái hơi thở cứ nương nhau hoài. Thần (tâm) không rời khí (hơi thở), mà khí cũng chẳng rời thần, chẳng mau, chẳng chậm. Thần khí đều dùng hết thì âm dương mới hiệp lại một. Nếu thở mau thì nôn quá, nếu dễ động, chẳng hội điều. Còn thở chậm quá, thì nó theo khí hữu tướng, cũng chẳng hội điều đặng. Vậy nên sanh bệnh nặng, vì không hội điều.
Phải thở cho mau mà không động, phải thở chậm rãi mà không ngừng, mới trúng phép chơn tức của chánh đạo. Chẳng thấy có mà không giúp sức cho hơi thở, đừng thấy không mà quên phức đi. Cái lý nó thì là chẳng có, chẳng không. Chẳng thở ra, chẳng hít vô là một hơi thở thiên nhiên. Chơn hỏa hầu tự nhiên tịnh định. Tịnh định hoài không thôi. Luyện được như vậy rồi, lâu lâu mới được "an". An ấy là hòa. An rồi cái lý xung hòa ắt đặng. Chơn tức ở trong mình, chớ nó không có hình tượng chi hết, như không không vậy. Tuy chẳng thở, mà thiệt là có hơi thở.
Như-Lai Tạng nói: "Biết đặng chơn không, thiệt là tại tánh người, rồi sau mới đặng điều chơn tức". Như điều chơn tức chẳng đặng, thì rốt cuộc khó đại tịnh.
Lại nói rằng: ban ngày đồng đi, chẳng trước, chẳng sau, ban đêm đồng ngưng, chẳng thông cũng chẳng lìa. Luyện đặng dường ấy thì biết đạo rồi.
-----------------------------------------
Đây là phép thai tức tôi đã truyền dạy, phải luyện thường xuyên từ khi nhập đạo tới mãi sau này, trong đó có chứa nhiều bí chỉ huyền vi, luyện thành rồi sẽ tự nhiên khám phá ra.

XXIII. DƯỢC HỎA LUẬN
Trúc cơ thể dược, vận hành tấn hỏa, đề hỏa, ôn dưỡng, mộc dục là lửa của ngươn thần. Khởi hỏa, gián hạ, thối phù, là lửa phanh luyện. Ðiều tức, dẫn hỏa là lửa của hơi hít vô thở ra. Khôn hỏa, khảm hỏa, dương sanh sản dược, ngoại dược, nội dược, tiểu dược, đại dược là lửa huyền khí.
Trong lửa có thuốc, mà trong thuốc cũng có lửa. Thể luyện là lửa, vận hành là thuốc. Hỏa dược (lửa thuốc), cũng là một nghĩa lý. Mượn tên mà nói hỏa dược, chớ gốc nó cũng là thần khí mà thôi. Thần là hỏa, khí là dược. Việc thêm hay bớt lửa phải có chơn sư truyền chỉ mới biết được.
Nếu hỏa dược chẳng rõ thì đại đạo khó thành. Vậy nên phải cần kiếm cho đặng chơn sư chỉ bày rạch ròi hỏa dược. Cắt nghĩa rõ ràng mấy chỗ giả danh và thí dụ. Rồi mới nên hạ thủ mà luyện hỏa dược.
------------------------
Đoạn này bàn qua về hoả dược, đặt thành nhiều danh từ như: lửa nguyên thần, lửa phanh luyện, lửa huyền khí, trong đó các danh tự khác chẳng cần quan tâm, chỉ cần để ý đến lửa phanh luyện mà thôi.' hoả dược chẳng rõ thì đại đạo khó thành ' cũng như 'thánh nhân truyền dược không truyền hỏa' là một nghĩa vây. Biết thái dược huyền quan mà không biết khởi hoả  phanh luyện thì dược mãi nằm trong lò rốt cuộc cũng lậu tiết.

XXIV. BÁ NHỰT TRÚC CƠ
Khi luyện trúc cơ cần nhứt là thôi tưởng niệm.
Khi nhập định thì lần lần phải bớt hơi thở. Ðó là công pháp. Lổ miệng và lổ mũi thì phải thở ra nhẹ nhẹ tự nhiên, chớ chẳng nên chú ý thở nhẹ, nếu chú ý, thì tâm ý lại lo thở nơi miệng, mũi, cho nên chơn khí chẳng định được. Hễ không định thì thuốc không hiệu nghiệm. Cho nên bế tức (không thở) mà cũng như không bế lại, tự nhiên hơi thở nó nhẹ nhẹ.
Chữ trúc cơ là bồi đấp cái linh căn, nghĩa là đem tam bửu (tinh, khí, thần) thâu về nơi trong lư. Phản quang vô trong, chẳng cho nó chạy ra ngoài. Ấy là ngưng thần nhập khí huyệt. Lửa trong quẻ ly lần lần giáng xuống nơi quẻ khôn. Nghĩa là lửa trong tâm mình nó đi lần xuống nơi hạ đơn điền. Phúc nhiên, yểu minh đại định. Một mảy tư niệm chẳng lừng lên, một mảy hồng trần chẳng nhuốm. Ðịnh tại khảm vị (là hạ đơn điền). Như mất, như còn. Ngoài thì chẳng biết hình thể trời đất, nhơn ngã, trong thì không có dấu tích thân tâm chi hết. Làm được vậy, lần lần mới được an. An đây nghĩa là hòa. Ấy vậy, cái lý xung hòa đã đặng rồi. Công tu luyện đến đó, như đài cao 100 thước, mà bước được đến chót, mà vẫn còn phải lần lên nữa.
Hễ ở dưới đáy nồi, có hơi lửa nóng, thì hơi nước phải lừng lên, như nấu nước vậy. Ðó thiệt là hỏa bức kim hành.
Lại nói khi trúc cơ, ngoài thì lổ tai đừng cho nghe, con mắt đừng cho thấy, còn trong thì tâm đừng cho biết lo lường, chẳng biết đến, chẳng hay đến việc chi hết. Cái tâm phải cho trong sạch như khí thái hư vậy. Ðến đối tưởng cái thân của mình cũng như không có. Lúc đó thì yểu yểu, minh minh, hoảng hoảng hốt hốt, lâu lâu sẽ
-----------------------------
Bá nhựt trúc cơ nghĩa là 100 ngày xây đắp nền móng, trên thì thu khí tiên thiên, dưới thì không lậu tiết, giữ vững tinh khí.
Trong này có một đọan mà các nhà khí công hiện đại mượn chế biến thành phép ý thủ đan điền, thực chất khi thu khí từ huyền quan thì tâm hướng về đan điền để giáng khí tiên thiên, thái dược quy lư, hoàn toàn khác với ý thủ đan điền là lấy thuốc ra khỏi lò, nếu không được truyền thụ huyền quan thì sai một ly đi một dặm.
'Hoả bức kim hành' còn gọi là 'tụ hoả tải kim', ví von tiên thiên khí như dược thuốc,phải nhờ hoả đun nấu mới hoá hơi bốc lên, hiểu sai ý này lên khí công ngày nay có thuyết hạ tâm hoả góp tốn phong,tinh vụt hoá khí bay lên, kỳ thực chữ hoả ở đây không phải là tâm hoả, mà là hoả 'phanh luyện' , thứ hoả này sinh ra khi nào tinh khí không tiết lậu lâu ngày thì nó xuất hiện tự nhiên vào ban đêm.Muốn biết hoả này thì để ý đứa trẻ hoặc thanh niên, lúc nửa đêm gần sáng khi ngủ thấy ngoại thận dục cử , đó là đang tụ hoả tải kim vậy, nếu tiết giữ tinh khí lâu ngày thì sẽ thấy hiện tượng này ngày càng mạnh, bá nhựt trúc cơ cần 100 ngày không lậu tiết để tụ hoả, tiên thiên khí tuy chứa đầy đan điền mà không có hoả này để tiến dương thì không thể theo vĩ lư nhập nê hoàn đươc.Tu đạo vừa dễ vừa khó, bá nhựt trúc cơ nghe ghê gớm vậy chứ thực chất là hoàn toàn tự nhiên , chỉ cần tiết giữ tinh khí, đến chập tối nằm nghiêng mà ngủ sớm thì dương hoả tự nhiên tiến lên.Lại có người thắc mắc tiết giữ 100 ngày đối với thanh niên khoẻ mạnh có chịu nổi không? làm sao mà không tiết lậu bậy trong khi ngủ mê? xin trả lời đạo gia có bí pháp hết, chỗ này cũng là chổ quan trọng , phải cậy thầy trao khẩu quýết, tự nhiên mạch khí đổi lại từ người lớn thành trẻ thơ, tự nhiên nhi nhiên, không làm mà vẫn làm.

THỦY NGUYÊN THANH CHƠN LUẬN
Thủy là dược, nguyên là đơn điền. Thể dược thì phải tịnh, đặng đợi cho khí phát động thì dược yểu yểu minh minh mà đại định. Việc lo lường vọng tưởng một mảy chẳng biết đến, chẳng hay chẳng biết việc chi hết, một việc trần thế chi nhỏ mọn hết sức cũng không đến lòng. Khi ấy thủy động mới là thiệt chơn thủy. Dược miêu lấy hồi đó mới là chơn thanh dược miêu.

Như vậy thì lúc tịnh định cho dược miêu sanh ra, nếu trong lòng còn lo lường việc chi, vọng tưởng điều gì, làm cho trần duyên tạp nhiễm, cho nên còn biết, còn thấy, còn nghe, thì thủy nguyên chẳng đặng thanh chơn, nếu lấy dược miêu ấy mà dùng thì không thành chơn đặng.
Bởi dược miêu theo nơi nguồn trong mà phát sanh, nếu lấy dùng thứ đó mới thành đơn dược. Còn tại nơi trược nguyên (nguồn đục) mà sanh ra thì phải bỏ đi, không nên lấy mà dùng.
Lại như dâm niệm phát sanh, thì không nên lấy thuốc lúc đó mà dùng. Hễ mà dùng thì chẳng thấy khỏi thành huyễn đơn, chớ chẳng thành chơn đơn bao giờ.
------------------------
Tôi lược bỏ vài chương không cần thiết, nghi rằng do tam sao thất bản hoặc do người sau viết thêm tỏ vẻ huyền bí.Mấy chương bên trên có khái niệm lấy thuốc phân già non là thuật ngữ dùng trong phòng trung thuât,

sau này sẽ bàn riêng vào mục khác.
chương này có khái niệm về nguồn thuốc trong đục, xin giảng rõ như sau
-thuốc trong: là khi tụ hoả tải kim vào đêm ngoại thận tự nhiên dục cử, không có chút tà niệm xen vào là nguồn thuốc trong ,lại khi ban ngày đang đi đứng cũng tự nhiên thấy như vậy mà không phải do tư tưởng bậy bạ, thường thấy nhiều ở con nít, như vậy thì yên tâm mà hái thuốc, thực chất nếu phải dùng từ hái thuốc thì e rằng còn chưa được sư truyền phép hoán đổi mạch, tôi giảng về hoán đổi mạch:
Khi còn nhỏ thì đứa trẻ nó vận đốc mạch tự nhiên, cửa vĩ lư mở sẵn thông thẳng vào nê hoàn, mạch nhâm hoàn toàn đóng kín lên không có tíêt lậu, khi này vòng tiểu châu thiên vận hành tự nhiên, tiên thiên khí từ đan điền do hoả tụ hút về hội âm rồi theo vĩ lư thẳng vào nê hoàn, hoàn tinh bổ não tự nhiên.
sau 16 tuổi dương cực âm sinh, vĩ lư đóng lại, đốc mạch bế mà vận nhâm mạch , huyệt hội âm không thông với vĩ lư mà thông thẳng vào dương quan, như vậy là có lậu tiết.
Đứa trẻ dưới 16 tuổi mà may mắn đắc sư truyền thì tu luyện rất dễ, chắc chắn thành kỳ nhân.
sau khi đã tiết lậu thì mạch đã thay đổi, muốn tu luyện trở lại thì phải được sư truyền khẩu quýêt đổi lại mạch trước thành sau như trẻ thơ vây.
Chương này dùng từ 'hái thuôc', tôi e chưa được hoán đổi mạch, còn phải dùng phép thủ công là bế hậu mộn để vận khí.
-nguồn đục:là khi tư tưởng bậy bạ, tà dâm mà ngoại thận cử động đó là nguồn đục, lấy thuốc này tu luyện thì cái khí tiên thiên nó đã có niệm dục xen vào không còn tinh khiết nữa, tuy rằng cũng tốt cho não bộ nhưng sau vẫn phải luyện lại cho hết chất dục niêm đi mới xài được, hái thuốc nguồn đục trở  thành nguyên tắc của thuật hoàn tinh bổ não,phòng trung thuật, hoặc các phương thức giao hợp thần bí của mật giáo, tuy nhiên muốn thực hành phương pháp này thì nhất thiết phải hoán đổi được mạch mới thực hiện được, một ngày có thể giao hợp chục lần mà không lậu tiết, không mệt mỏi, nếu chưa hóan đổi mạch mà cố bắt chứoc thì tai hại gấp nhiều lần khi bình thường.

THỂ ÐẠI DƯỢC LUẬN
Khi lửa đúng thì phải tắt lửa. Nếu lửa chẳng dứt thì lửa vỏ hỏa của hậu thiên sót lại,

ắt kim đơn chẳng khỏi bị hại bởi lửa dư ấy.
Nếu tắt lửa cho hiệu nghiệm thì ngoại thận teo lại cũng như đầu con rùa vậy, thường chữ kêu là qui túc.
Ngoại thận không cử động chi hết, cho đến đổi lại gần đàn bà nó cũng xụi lơ. Còn nơi đơn điền thì thường thường lại âm ẩm ngoài. Từ con mắt cho đến nơi lổ rún thì có 1 con đường sáng chói lòa kêu là bạch quang khí.
Như lúc ấy mà ngươn tinh chưa động thì đừng vận châu thiên nữa, phải tịnh mà đợi cho dương quang (khí sáng) phát hiện ra lần thứ hai. Còn như hậu thiên ngươn khí nó động, chẳng nên lấy thuốc mà dùng. Phải ngồi mà nhập định, đợi cho dương quang hiện chói lần thứ ba. Lúc ấy lửa đủ thì đơn dược mới thành. Chừng đó trong hạ đơn điền mới có đại dược. Phải lấy đại dược đó mà thủ luyện thì mới thành kim đơn.
Rồi trở lại dùng phép đại châu thiên đặng trừ diên, thêm hống (bớt âm, thêm dương). Lần lần khí dương nhiều thì khí âm phải tiêu mòn hết. Tự nhiên thuần dương, hết âm, thì dương thần thành tựu, ắt sau thần định. Còn như thần không định thì dương thần chẳng xuất hiện ra đặng. Ông Xung Hư chơn nhơn nói rằng: Tắt lửa là luyện sao cho dược vật chẳng động nữa. Lại có dương quang hiện ra lần thứ hai là chừng ấy phải tắt lửa đó. Phải tắt cho hết vỏ hỏa,

còn văn hỏa thì để vậy mà ôn dưỡng khá rời.
Dương quang nó phát hiện ra trước chơn mày, có lòa ra như điện khí chớp nhoáng, đó là dương quang hiện lần thứ nhất. Lúc ấy lửa chưa đủ, nên ngoại thận cũng chưa thụt vô.
Như gặp có khí dương sanh phát thì lấy mà vận luyện. Phải vận 1 châu thiên, cứ luyện như vậy hoài cho được nhiều phen. Tịnh rồi lại tịnh nữa, vận châu thiên cho giáp vòng, rồi vận nữa cho đến khi đầy đủ, lo nhập định đặng bồi bổ chơn dương, đặng đợi cho dương quang hiện ra lần thứ nhì. Như lúc hiện lần thứ hai đó có khí động, chẳng nên lấy thuốc mà dùng. Phải lo nhập định mà thôi, đặng đợi dương quang hiện lần thứ 3, mới nên lấy thuốc đại dược. Lấy thuốc ấy mà vận luyện.
Ðại dược khi nó mới khởi ra thì hình nó như trái châu lửa (hỏa châu). Lúc đại dược sanh thì có hiệu nghiệm như vầy: 2 con mắt phóng kim quang (hào quang chói sáng như điện khí), 2 lổ tai nghe gió thổi vù vù, đàng sau ót nghe tiếng kêu, hai bên thanh cật (sau lưng chỗ gần eo lưng) nóng tợ nước sôi, còn dưới hạ đơn điền nóng tợ lửa đốt.
Hễ có cái cảnh tượng như vậy thì là có đại dược sanh. Phải lấy ý dời nó lên trung đơn điền. Trước hết phải dùng hà sa (*thủy xa*) mà vận cho siêu thoát, thì lục căn mới không lậu (hở chảy ra) ở tại đường cốc đạo, thì giữ gìn đừng cho nó địt.
Hễ đại dược sanh ra thì nó chạy vọt lên tâm (tim). Nếu tâm vị không chứa đặng thì nó hạ xuống nơi vĩ lư. Như vĩ lư chẳng thông, nó lại chạy thẳng xuống cốc đạo mà tẩu triệt ra ngoài.
Lúc ấy phải thủ tịnh mà đợi cho chơn khí động lại, rồi nhẹ nhẹ dùng ý mà dẫn đại dược qua khỏi cốc đạo, vì sợ nó chạy bậy ra ngoài. Nếu gặp nhầm vĩ lư bị điều chi ngăn trở, chẳng thông thì phải thủ tịnh nữa. (Một mảy vọng niệm chẳng tưởng tới, một ý trần gian chẳng muốn đến) Tịnh mà đợi cho chơn khí động lại nữa. Chẳng nên bất tử mà dẫn đại dược đi, phải đợi cho chơn khí động lại, rồi cũng dùng ý nhẹ nhẹ mà dẫn đại dược qua vĩ lư.
Bắt từ giáp tích cho tới ngọc chẩm (sau ót), đi đến minh đường, xuống trùng lầu (cuống họng) rồi quá quang. Như có việc chi ngăn trở thì phải đợi cho chơn khí động lại nữa, rồi cũng nhẹ nhẹ vận dụng mới được. Lúc xuống trùng-lầu ấy cũng như hồi phục thực vậy. Ðại dược vào nơi trung đơn điền, chỗ thần nhất (là chỗ dưỡng thần). Cho nên trung đơn điền và hạ đơn điền thông rồi thì hiệp lại làm một.
Khi ấy dưỡng đại dược nơi trung đơn điền thì ngươn thần tịch chiếu nơi hạ đơn điền và trung đơn điền, thì đại dược cần phát sanh. Còn ngươn thần tuy ở trung đơn điền, mà cũng vận động tới cả về trung và hạ đơn điền. Nên nhị khí mới diệu dụng, hóa ra cảnh giới hư không.
Lúc ấy phải dùng lửa ấm ấm, dường như có mà cũng dường như không, thì văn hỏa mới hiệp mầu nhiệm, và nhị khí lên xuống tự nhiên. Chẳng cần để ý mà dẫn nó, cứ để tự nhiên cho nó đi.
---------------------------
Chương này có mấy thuật ngữ cần tìm hiểu:
- Tiểu dược: là khi tiết giữ tinh khí chưa được 100 ngày thì sức hoả chưa mạnh, mức độ tụ hoả tiến dương chưa cao do đó chân khí thường đột nhập vĩ lư trong lúc ngủ với số lượng ít, khi được truyền chân quýết hoán mạch thì ngoại thận dục cử suốt đêm, những bạn tập CTNC thấy như vậy cũng là đang tụ hoả tiến dương, CTNC sẽ mở tạm thời mạch đốc trong khi ngủ, khi thấy hiện tượng tụ hoả thì hãy chủ động nằm nghiêng mà ngủ, gọi là ngoạ thiền.
- Đại dược:tiết giữ tinh khí đủ trăm ngày thì sức hoả đã rất mạnh, mỗi lần hút chân khí từ đan điền về hội âm với số lượng rất lớn đến nỗi khi chân khí rọ rạy thì cảm nhận được hết, giai đoạn này theo mật tông gọi là bản thân tự giao cấu vì chân khí từ hội âm là điểm cuối của âm mạch bị hút sang vĩ lư là điểm đầu của dương mạch rất lớn cho nên cảm nhận như thật, nhưng mức độ trải nghiệm thì lớn hơn nhiều, theo mật tông thì mạnh hơn 100 lần, giai đoạn này còn gọi là giao hợp thần bí, thậm chí có thể trong trạng thái này thực sư trông thấy bạn tình của chính bản thân,rất đẹp, có thể nói là mấy cô hoạ hậu vẫn còn thua xa lắc, sau giai đoạn này thì không còn hứng thú với đối tượng bên ngoài, vì thế những người theo đạo không thích lấy vợ nữa, chứ kễ ra họ đã luyện thành phòng trung thuật thì đâu có ngại tiếp chiêu ( chỗ này tôi lấy tư cách sư huynh mới dám tiết lộ, chứ người xưa rất ngại nói mấy đoạn này,thánh nhân nói chỉ dám truyền dược chứ không truyền hoả là vậy, gần đây có một số tác phẩm của OSHO bàn vấn đề này rất thẳng thắn). sau khi có đại dược rồi thì từ đó về sau cứ thế mỗi đêm lấy đại được, luyện tiến dương hoả cho đến khi chân tâm thuần dương mới thôi.

GIẢNG MINH HUYỀN QUAN   
Hỏi: Từ xưa đến nay, người người thuyết đạo, nói đặng huyền quan, mới đặng thành Tiên,

Phật. Huyền quan ấy ở chỗ nào, tên gì, họ gì?
Ðáp: Vật ấy không tên chi khác. Cần cầu sư phụ chỉ đường tắt thì biết rõ huyền quan. Huyền quan là tiên thiên tổ khí. Cư trú tại Nam Thiệm Bộ Châu, nước Vô Song, phủ Thần Châu, huyện Thần Sa, trong núi Côn Lôn là Linh Sơn Thái Tử, tên Chơn Ngươn, tự là Ngươn Dương, hiệu Tây-Lai-Ý. Vì bởi sắc dục chưa dứt, tham tưởng hồng trần. Nhơn trời đất mở cửa mới xuống Bác Cu Lư Châu, nước An Dưỡng, phủ Huyền Huỳnh, huyện Bạch Kim, làng Bồ Ðề, nơi chơn núi Linh Sơn. Con nuôi là nhà Thận, cha nuôi là Hạo Nhiên, là người tâm tánh nhơn từ, mẹ nuôi là Trần Thị Tâm, là tham luyến phàm huê lại lo lắng hoạn nạn, cực nhọc, lao lực phí thần. Huyền quan ăn năn, vì lúc ban đầu giận mà tưởng lầm. Ngày nay muốn chết mà chẳng hay chết, muốn sống mà chẳng hay sống, oán hận chẳng thôi. Trong lúc nửa đêm, khi ở trên giường ăn năn, hờn giận lo tưởng, bỗng nghe cách vách, linh phu khuôn mẫu hiệp thương. Huyền quan lòng mừng nhảy nhót, mau mau đứng dậy chạy vào bụng khuôn mẫu, lộn lạo biến hóa anh nhi, chịu khổ 3 năm, đến năm Ðinh Tỵ, 30 tháng 5 ngày hạ chí, mượn mẹ đầu thai. Ở trong bụng mẹ tính đợi 100 ngày, đến đời vua Phục Hư (hườn hư), năm Bính Ngọ, mùng 1 tháng 11, ngày đông chí, giờ Tý sanh ra. Linh phụ khuôn mẫu già cả đặng một con thì rất hân thiên, hỉ địa, cũng như ban đêm được ngọc Minh Châu,

mới đặt tên là Huyền Quan.
Huyền Quan nói rằng: Tôi làm cực nhọc cha mẹ, cha mẹ nuôi tôi mới đặng ra đời. Nếu không cha mẹ giao cấu, tôi phải đọa khổ hải, chuyển đầu thai trong loài bò bay, máy cựa (tứ sanh) trọn không ngày ra đặng. Ơn cha mẹ banh da, xẻ thịt, thiệt khó báo đáp vậy. Huyền Quan còn có cha nuôi tên Huyền Tông, mẹ nuôi họ Khôn tên Nguyệt Bửu. Thầy của Huyền Quan là ông Chánh Nhứt Tử chơn nhơn, truyền cho phép làm trời, đất. Huyền Quan đêm ngày công cần tập tành thành thần thông, mới có phép di sơn, đảo hải, thiên biến vạn hóa. Nhưng cha mẹ Huyền Quan trong lòng lo sợ, e sanh họa đến mình, cho nên giờ khắc nào cũng chăm nom, không giây phút thả lỏng. Trong cung có nàng long tử, mới chiêu thân với Huyền Quan làm chức nữ (tân lang). Lại chuyển pháp luân xuống đáy biển, cả phá long cung. Trong long cung có nàng long nữ mới phối hôn với Huyền Quan. Huỳnh Kim mảng thất, dị bửu mảng đình. Có khi ngủ trên thiên cung. Cha mẹ yêu như trân bửu. Huyền Quan khôn lớn, nên người cứ quen thói cũ, dời lên núi Côn Lôn. Lại xưng đại danh là chơn nhơn. Huyền Quan ra cửa du ngoạn. Bà khuôn mẫu giờ khắc nào cũng trông nom chẳng dám rời.
Thuở vua Minh Đế, năm thứ bảy, nhằm năm Mậu Tý, tiết trung thu, ngày rằm, giờ tý, Huyền Quan ra cửa. Khôn mẫu dặn rằng: ram au, phải về mau, chẳng khá ở lâu nơi ngoài. Huyền Quan lúc nào cũng uống sữa chẳng lìa Khuôn mẫu, lâu lâu mới dám đi xa. Đến chừng Huyền Quan khôn lớn, cha mẹ vui long mới để cho lìa mẹ chơi xa. Cha mẹ lại cưới nàng Hằng Nga ở cung trăng cho làm đôi bạn, mới sanh đặng đứa con trai tên Kim Đồng, lại đẻ 1 nàng con gái tên Ngọc Nữ. Huyền Quan ra ngoài du ngoạn, anh em bạn mới cho hiệu là Dương thần tử. Phật Như Lai, Địa Tạng kết làm an hem. Phật Đẩu Mẩu, Quan Âm là em gái. Đức Ngươn Thỉ Ngọc Hoàng là đạo hữu. Chư Phật bồ tát là bà con quyền thức. Ông nội Huyền Quan là mộc công, bà nội là Kim mẫu. Thái công vô thượng (illimité) Thái bà vô danh (incrée). Huyền Quan ở tại thiên cung, phật quốc làm Tiên, khoái lạc vô cùng. Huyền Quan công hạnh viên mãn, tính là 9 năm, tháng giêng ngày ngươn đán, giờ tý thoát xác sắc phi thăng, cỡi rồng về trời.

 1.Vật ấy không tên chi khác. Cần cầu sư phụ chỉ đường tắt thì biết rõ huyền quan. Huyền quan là tiên thiên tổ khí. Cư trú tại Nam Thiệm Bộ Châu, nước Vô Song, phủ Thần Châu, huyện Thần Sa, trong núi Côn Lôn là Linh Sơn Thái Tử, tên Chơn Ngươn, tự là Ngươn Dương, hiệu Tây-Lai-Ý

Tu luyện truy cầu huyền quan khiếu là phép tu tắt, nói theo nhà Phật là 'trực chỉ chân tâm, kiến tính thành Phật'.Các đường lối tu luyện không truy cầu huyền quan là tiệm tu, tạm phân biệt như sau:
1.tu giữ giới cấm: nhằm đoạn trừ , đè nén nhân duyên phiền não của quá khứ và hiện tại , do đó tương lai sẽ không bị nhiễm thêm phiền não, khiến cho mức độ nghiệp lực của tâm giảm nhẹ,

có thể cầu tái sinh vào cảnh giới thích hợp để tu luyện ( tịnh độ)
2.tu thiền định: mục đích lọc bỏ phần âm của chân tâm, tức là thanh lọc tham sân si hỷ nộ ái ố dục bằng cách làm cho chân tâm trở nên thanh tịnh, tự động gạt bỏ các phiền não , tuy nhiên cách này chỉ thích hợp với hàng thượng căn, chân tâm không bị nhiểm các phiền não thô , nếu là bậc trung căn bị nhiễm nhiều phiền não thô bám chặt chân tâm rất khó lọc bỏ.

Vì sao nói tu huyền quan là 'trực chỉ chân tâm, kiến tính thành phật'?
Vì huyền quan là của ngõ của tiên thiên tổ khí , có nhiệm vụ hộ trì chân tâm, như gương báu chém đứt mọi nghiệp chướng, giải cứu chân tâm ra khỏi mọi nghiệp lực trong tam giới.

Huyền quan cư trú tại nam thiệm bộ châu, tức là phương nam, ở người là khu vực thượng đình trước trán, nằm tại sơn căn tới ấn đường, hiệu là ngươn dương tức là thuần dương. 

2.Vì bởi sắc dục chưa dứt, tham tưởng hồng trần. Nhơn trời đất mở cửa mới xuống Bác Cu Lư Châu, nước An Dưỡng, phủ Huyền Huỳnh, huyện Bạch Kim, làng Bồ Ðề, nơi chơn núi Linh Sơn. Con nuôi là nhà Thận, cha nuôi là Hạo Nhiên, là người tâm tánh nhơn từ, mẹ nuôi là Trần Thị Tâm, là tham luyến phàm huê lại lo lắng hoạn nạn, cực nhọc, lao lực phí thần

Tiên thiên khí theo chiều hướng thuận thì sinh nhân nên là nguồn gốc của dục tình, khi nhập xác thân thì xuống bắc cu lư châu tức là phương bắc, ở người là thận, thận tàng tinh, trong tinh có khí chính dương.Làng Bô đề, chân núi linh sơn là chỉ cột xương sống cho tới não bộ, đều là nơi cư trú của khí tiên thiên.Nhận thận là nhà tức là nơi cư trú, hạo nhiên là cha nuôi là khí hô hấp, mẹ nuôi là trần thị tâm tức là phàm tâm.Tiên thiên khí nương tựa vào tâm, thận, khí hô hấp mà tồn tại trong thân thể. Vì sao chỉ nhận những thứ này là cha mẹ nuôi? vì đó là nguồn gốc khác nhau, một đằng tiên thiên, một đằng hậu thiên vậy. 

3. Huyền quan ăn năn, vì lúc ban đầu giận mà tưởng lầm. Ngày nay muốn chết mà chẳng hay chết, muốn sống mà chẳng hay sống, oán hận chẳng thôi. Trong lúc nửa đêm, khi ở trên giường ăn năn, hờn giận lo tưởng, bỗng nghe cách vách, linh phu khuôn mẫu hiệp thương. Huyền quan lòng mừng nhảy nhót, mau mau đứng dậy chạy vào bụng khuôn mẫu, lộn lạo biến hóa anh nhi, chịu khổ 3 năm, đến năm Ðinh Tỵ, 30 tháng 5 ngày hạ chí, mượn mẹ đầu thai. Ở trong bụng mẹ tính đợi 100 ngày, đến đời vua Phục Hư (hườn hư), năm Bính Ngọ, mùng 1 tháng 11, ngày đông chí, giờ Tý sanh ra. Linh phụ khuôn mẫu già cả đặng một con thì rất hân thiên, hỉ địa, cũng như ban đêm được ngọc Minh Châu, mới đặt tên là Huyền Quan.

Tiên thiên thuận sinh thì hoá hậu thiên. Nhà Phật coi đời là bễ khổ, cho nên huyền quan vì mê lầm , tham tưởng sắc dục hồng trần, tưởng là điều tốt đẹp mà xuống thân xác phàm tục , không ngờ đó là tù ngục. Vì thế nói rằng 'muốn sống chẳng hay sống, oán hận chẳng thôi'.Linh phụ khuôn mẫu hiệp thương, đây là cách ví von về âm dương bản thể giao phối thì tiên thiên khí liền theo huyền quan khiếu mà vào, ở trong bụng mẹ 100 ngày tức là hạ đơn điền , đó là bể chứa khí tiên thiên dự trữ của con người, giờ tý sinh ra sau 100 ngày là huyền quan lộ xuất, phát sáng như ngọc minh châu.Chịu khổ 3 năm thì đầu thai tức là chứng quả thuần dương.

 4.Huyền Quan nói rằng: Tôi làm cực nhọc cha mẹ, cha mẹ nuôi tôi mới đặng ra đời. Nếu không cha mẹ giao cấu, tôi phải đọa khổ hải, chuyển đầu thai trong loài bò bay, máy cựa (tứ sanh) trọn không ngày ra đặng. Ơn cha mẹ banh da, xẻ thịt, thiệt khó báo đáp vậy. Huyền Quan còn có cha nuôi tên Huyền Tông, mẹ nuôi họ Khôn tên Nguyệt Bửu. Thầy của Huyền Quan là ông Chánh Nhứt Tử chơn nhơn, truyền cho phép làm trời, đất. Huyền Quan đêm ngày công cần tập tành thành thần thông, mới có phép di sơn, đảo hải, thiên biến vạn hóa

Đoạn này ý nói tiên thiên khí làm cho con người trở nên đạo đức hiếu nghĩa , nên huyền quan biết nói đến chuyện công ơn sinh thành của cha mẹ. Thầy là ông chánh nhứt tử chơn nhơn truyền cho phép làm trời làm đất nghĩa là trong quá trình tiến đến thuần dương thì tự nhiên sẽ phát sinh thần thông, thiên biến vạn hoá. Thần thông là do tiên thiên hoá hậu thiên mà ra, vạn vật trên thế gian đều nương tựa khí tiên thiên mà xuất hiện. 

5.Nhưng cha mẹ Huyền Quan trong lòng lo sợ, e sanh họa đến mình, cho nên giờ khắc nào cũng chăm nom, không giây phút thả lỏng. Trong cung có nàng long tử, mới chiêu thân với Huyền Quan làm chức nữ (tân lang). Lại chuyển pháp luân xuống đáy biển, cả phá long cung. Trong long cung có nàng long nữ mới phối hôn với Huyền Quan. Huỳnh Kim mảng thất, dị bửu mảng đình. Có khi ngủ trên thiên cung. Cha mẹ yêu như trân bửu

Vì huyền quan tập tành thần thông sẽ gây nghiệp chướng, cản trở tiến trình thuần dương nên nói rằng cha mẹ lo sơ, e sanh hoạ đến mình, không giây phút thả lỏng tức là không nên tập thần thông.Chuyển pháp luân xuống đáy biển, cả phá long cung, nghĩa là tiên thiên khí vận xuống đáy biển , thuật ngữ gọi là 'hải để ' là chỉ hội âm. Phối hôn với long nữ là ám chỉ giao hợp thần bí trong thân thể , ai cũng có một người phối ngẫu ở long cung huyệt hội âm vậy. Có khi ngủ trên thiên đình, cha mẹ yêu như trân bửu nghĩa là trạng thái giao hợp thần bí diễn ra trong cảnh giới hư ảo ví như thiên cung, và là trạng thái cực kỳ quý giá ví như trân bửu vì đó là chặng then chốt trong tu luyện. 

6.Huyền Quan khôn lớn, nên người cứ quen thói cũ, dời lên núi Côn Lôn. Lại xưng đại danh là chơn nhơn. Huyền Quan ra cửa du ngoạn. Bà khuôn mẫu giờ khắc nào cũng trông nom chẳng dám rời.

Tiên thiên khí khi tích tụ đủ lực lượng gọi là khôn lớn thì sẽ tự nhiên chạy vòng ra sau xương sống đi lên đầu nên nói là quen thói cũ dời lên núi Côn Lôn. Huyền quan ra cửa du ngoạn là khi đã chứng quả thuần dương thì có thể tuỳ ý xuất nhập ra ngoài thiên địa du ngoạn , nhưng cũng không nên đi chơi xa nên nói là bà khuôn mẫu trông nom chẳng dám rời.

7.Thuở vua Minh Đế, năm thứ bảy, nhằm năm Mậu Tý, tiết trung thu, ngày rằm, giờ tý, Huyền Quan ra cửa. Khôn mẫu dặn rằng: ram au, phải về mau, chẳng khá ở lâu nơi ngoài. Huyền Quan lúc nào cũng uống sữa chẳng lìa Khuôn mẫu, lâu lâu mới dám đi xa. Đến chừng Huyền Quan khôn lớn, cha mẹ vui long mới để cho lìa mẹ chơi xa. Cha mẹ lại cưới nàng Hằng Nga ở cung trăng cho làm đôi bạn, mới sanh đặng đứa con trai tên Kim Đồng, lại đẻ 1 nàng con gái tên Ngọc Nữ

Khi mới chứng thuần dương thì còn non yếu không nên đi chơi xa. Tích luỷ thêm dương khí thành cứng cáp thì có thể tuỳ ý xuất nhập trong tam giới không nơi nào có thể ngăn trở, vào nước không chìm, vào lửa không cháy, lên trời xuống biển tự do tự tại. Cha mẹ cưới nàng Hằng nga ở cung trăng cho làm đôi bạn nghĩa là đến đây, Huyền quan lại cưới thêm một cô vợ, cô vợ này là Hằng nga ở Cung Trăng nghĩa là Thái Âm, là thuần âm. Đây là giai đoạn càn khôn giao cấu của Đạo gia. Sanh đặng con trai là Kim Đồng, một con gái là Ngọc Nữ , đây là cách nói ví von, thực chất sau khi càn khôn giao cấu thì sinh thánh thai là thể vô cực ,không phân biệt âm dương, nên gọi là sinh cả trai lẫn gái. 

8.Huyền Quan ra ngoài du ngoạn, anh em bạn mới cho hiệu là Dương thần tử. Phật Như Lai, Địa Tạng kết làm an hem. Phật Đẩu Mẩu, Quan Âm là em gái. Đức Ngươn Thỉ Ngọc Hoàng là đạo hữu. Chư Phật bồ tát là bà con quyền thức. Ông nội Huyền Quan là mộc công, bà nội là Kim mẫu. Thái công vô thượng (illimité) Thái bà vô danh (incrée). Huyền Quan ở tại thiên cung, phật quốc làm Tiên, khoái lạc vô cùng. Huyền Quan công hạnh viên mãn, tính là 9 năm, tháng giêng ngày ngươn đán, giờ tý thoát xác sắc phi thăng, cỡi rồng về trời

Sau khi càn khôn giao cấu sinh thánh thai thì Huyền quan ra cửa du ngoạn được xếp vai vế ngang hàng với Phật Như lai, Địa Tang.Phật Đẩu Mẫu , Quan Âm là em gái vì nguồn gốc ra đời sau Phật Như lai , Đức Nguyên Thủy Ngọc hoàng tức là vị Ngọc Hoàng Thượng Đế đầu tiên nguyên thủy nhận làm đạo hữu, bạn đồng tu. Huyền quan ở tại Phật quốc làm tiên ý nói tiên phật chung một nguồn côi. Từ càn không giao cấu sản thánh thai tính tiếp 9 năm là công hạnh viên mãn vì công lao giải cứu quần âm trong tam giới lên được thoát xác phi thăng cưỡi rồng về trời chứng Phật quả.

Thư Viện 1      4   5