Những sai lầm trong khí công hiện đại
Bài của Huyền Quang Tử


Chào các bạn, có dịp tôi sẽ trình bày về những sai lầm hay có thể là những điểm bí mật không được phép phổ biến công khai trong khí công dẫn đến ngày nay người tập khí công tuy nhiều mà thành công không có bao nhiêu, phần nhiều những người thành công được là do ngộ tính rất cao được thần minh chỉ bảo mà phát hiện ra công pháp, nếu bạn không cho rằng việc tu luyện là nghiệp suốt đời thì không bao giờ được khai ngộ, rốt cuộc sẽ sa vào bàng môn tả đạo mà thôi.
Chào các bạn, phải chân thật khẳng định rằng công phu chân chính không bao giờ có trong sách vở cổ kim, các bạn đang luyện bất kỳ môn công phu nào được rút từ sách vở ra hoặc là do được thầy truyền dạy mà thấy trùng hợp công pháp trong sách (bao gồm cả khí công, nhân điện, năng lượng sinh học,yoga..) thì nên biết đã luyện sai rồi, ý thủ đan điền lâu ngày thì đảm bảo sẽ mang bệnh đó, đau các dây thần kinh sau lưng và chân, lời thật mất lòng, không biết các bạn còn muốn nghe lời khó nghe nữa không?
Chào bạn mườimột và các bạn yêu thích khí công thân mến .
huyền quang tử xin trích dẫn nguyên văn một vài sách cổ để minh chứng cho lời cuồng ngôn của mình nhé
sách ''tính mệnh khuê chỉ'' , phần ''chính tà thuyết'' viết rằng:
''ngày nay những người học đạo, đội mũ cao, mặc bào vuông, tự mãn, tự túc, không chịu hạ mình đến xin thầy ta chỉ cho thứ tự tu trì, như mù lại giắt mù, chạy vào đường ngang ngõ tắt, há chẳng biết đại pháp có 3600 thứ, với 24 phẩm đại đơn, tất cả đều là bàng môn, chỉ có đạo kim đơn này mới là tu hành chính lộ, trừ đạo này ra, không có đường nào khác để thành tiên thành phật

Chung Ly Quyền nói:
đạo pháp ba nghìn sáu trăm môn
mỗi người nắm được một miêu côn
hay đâu là khiếu huyền quang đó
không thấy có trong 3600 môn

Vì đại đạo huyền quang khó gặp dễ thành, bàng môn tiểu thuật thì dễ học khó thành. Cho nên những kẻ hiếu sắc tham tài thường thường mê muội và chẳng giác ngộ.
trong đó có số người thích lô hoả ( luyện ngoại đơn hoàng bạch hay kim ngọc), có số người lại thích nữ sắc để thái âm hộ dương, có người chuyên ngó đỉnh môn(thượng đơn điền), có người chuyên giữ gốc rốn, có người chuyển vận đôi mắt để luyện công, có số người chuyên trì thủ ấn đường, có số người chuyên chà xát vành rốn, có người thích lắc giáp tích, có người thích xoa bóp ngoại thận để tồn thần dưỡng khí, có người thích vận chuyển chân khí, có người thích dùng gái trinh để thái âm, có người thích bú sữa tại phòng trung, có người thích bế tức hành khí, có người ưa co duỗi để hành khí, có người thích vận động tam đan điền, có người thích hóp bụng co hậu môn để khỏi mất tinh(thở nghịch), có người thích hơ lưng nằm tuyết để tu luyện, có người thích ăn linh chi và bạch truật, có người thích thôn khí yết tân( nuốt nước miêng, có người thích nội quan tồn tưởng(quán tưởng), có người thích hưu lương tịch cốc, có người chịu lạnh và ăn bẩn, có người thích ban tinh vận khí, có người nhìn mũi điều hoà hơi thở, có người bỏ vợ vào núi, có người định quan giám hình, có người hùng kinh điểu thân ( tập ngũ cầm hí), có người nuốt sương và thực khí, có người chuyên ngồi không nằm, có người lo trừ thất tình, tảo trừ tạp niệm, có người thiển định bất ngữ, có người trai giới đoạn vị, có người thích mộng du tiên cảnh, có người yên lặng chầu về thượng đế, có người luyện mật chú trừ tà, có người luyện kiến văn chuyển tụng, có người ăn tinh khí mình để hoàn nguyên, có người bế huyệt vĩ lư để khép đóng dương quan, có người nấu luyện tiểu tiện gọi là thu thực, có người thu kinh nguyệt đàn bà mà họ gọi là hồng diên, có người luyện chế nhau người làm tử hà xa để làm thuốc cường dương, có người dùng chân khí để thông kinh hành khí, trợ giúp cho việc vợ chồng, có người nhắm mắt minh tâm để luyện bát đoạn cẩm, có người thổ cố nạp tân dùng hư ha hô hi suy, có người chuyên diện bích có chí muốn hàng long, phục hổ(đem nguyên thần xuống hạ đơn điền để phát động thận khí), có người tập khinh công để đạp gió cưỡi rồng, có người muốn hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, có người ưa đạp cương lý đẩu để xem sao, có người nương theo các quẻ truân mông để luyện hoả hầu, có người luyện thuật kim ngân hoàng bạch, thiêu mao lộng hoả, có người mong trường sinh bất tử, có người muốn bạch nhật siêu thăng lên trời, có người chấp sắc tướng không muốn hoá, có người tu trì hư tĩnh cho khí tán không trở lại ( thiền định), có người giữ giới định tuệ để mong giải thoát, có người muốn trử sân si để cầu thanh tĩnh, có người khi còn sống mà muốn siêu thăng tây vực phật giới, có người nguệyn lên thiên đường khi chết......phân phân loạn loạn như vậy không sao kể xiết.có nhiều người theo đạo theo Thích,
chỉ theo một thuật một quyết như vậy, mà cho đó là kim đơn đại đạo, ô hô, họ như bọn quản trung thiết báo(dùng ống quản mà xem beo), đáy giếng nhìn trời, quấy dẫn trăm mối, chi ly vạn trạng, đem chí đạo phá đoạn phân môn, lấy mê dắt mê, manh tu hạt luyện, dẫn người vào đừơng tà.''

Sách ''tham đồng khế trực chỉ tiên chú'' viết rằng:
"thị phi sách còn ghi
có kẻ thích nội quan
chân bước theo khôi cương
lại thích luyện lục giáp
có người luyện phòng trung
chín nông, một lần sâu
có người vận hô hấp
có người tu luyệt lương
ngày đêm không chịu nằm
suốt tháng không ngừng nghỉ
thân thể yếu mòn dần
hoảng hốt như điên cuồng
tạng phủ muốn sôi lên
lòng không được thanh thản
có người thích lập đàn
sáng chiều lo tế tự
bè bạn cùng ma quỷ
những muốn được trường sinh
đi sai ngược đường trời
thân hình sẽ hủ hoại
tà thuật có rất nhiều
đều ngược với hoàng lão
rốt cuộc sẽ tử vong
người hay biết yếu chĩ
sẽ hiểu rõ đầu đuôi

Người học đạo thời nay, không gặp được chân sư, nên chạy vào bàng môn, có người thì định tâm chỉ niệm, tập nội quan, có người thì bước theo sao bắc đẩu và luyện lục giáp, có ngừơi theo tà thuật cửu nhất, có người thì vận hô hấp, có người thì tuyệt lương, có người thì ngày đêm không nằm, lúc nào tinh thần cũng hoảng hốt như điên cuồng, có người thì tí ngọ hành khí, làm cho bách mạch như sôi lên vậy, có người đáp đất lập đàn bè bạn cùng ma quỷ
Những người như vậy lập ra nhiều chuyện, đi ngược đại đạo, mong được trường sinh mà trái lại làm cho mình bị thương tổn, tự chuốc lấy tai họa của cửu đô, những người đó há không biết thế gian còn có thất phản cửu hoàn, kim dịch hoàn đơn chi đạo, có thể biến nữ thành nam, cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử hay sao? Nếu có bậc minh triết chí sĩ, lại gặp được chân sư và biết được yếu chỉ của đại đạo, thì sẽ biết rằng đạo tu chân không ở trong 3600 pháp môn tà đạo vậy"

Đoạn khác lại viết rằng:
"khi thần minh muốn dạy người
thì tâm linh sẽ tự ngộ
hãy tìm cho ra manh mối
sẽ thấy rành cửa ngõ

thiên đạo vô tư, thường tryền cho các bậc hiền tài, vì đạo là điều quý báu của trời đất, không phải người đại trung đại hiếu thời không truyền, không phải đại đức, đại hạnh thời không trao. Nếu quả là người hiền đức thì có bao giờ lại không chịu truyền trao?"
huyenquangtu tham gia diễn đàn với mục đích là chỉ ra các sai lầm trong khí công hiện đại và hé mở chút kiến thức về nhập môn tu luyện chân chính, không có ý định post sách vào đây, mà chỉ trích dẩn những gì cần thiết mà thôi , thực sự ngay cả ''tính mệnh khuê chỉ'' một cuốn sách tổng hợp đầy đủ nhất về luyện kim đan cũng chỉ hé mở chút ít cho người có duyên, chứ không hề chỉ dẫn bí mật tu luyện thế nào
khi thần minh muốn dạy người ,thì tâm linh sẽ tự ngộ
Đạo pháp chân thật thì giản dị, không phức tạp như nhửng gì đã nói trong sách khí công ngày nay, khi tỉnh ngộ thì giật mình nhìn lại, quả là không có trong 3600 môn pháp ở thế gian..cửa ngỏ nhập môn của khí công tu luyện chính là huyền quan khiếu, nếu không biết nó thì nguyên khí không thể vào ra, thánh nhân khi hít thở thì thông khiếu huyền quan thấu suốt đan điền, đan điền có khí hay không là nhờ ở khiếu huyền quan, chứ không phải là do tinh hoá khí, khiếu huyền quan là then chốt của tu luyện đời đời.
Sách ''châu dịch xiển chơn'' phần ''trung đồ'' viết rằng:
"một chữ trung này , sau như trước, là việc quan trọng nhất của kẻ tu hành
trúc cơ tại đó, thể dược tại đó, phanh luyện tại đó, ôn dưỡng tại đó, tiến đơn tại đó,thối âm tại đó, kết đơn tại đó,thoát đơn tại đó.Trong phép thất phản cửu hoàn, chẳng có việc gì mà không ở tại đó.
nhưng chữ Trung nhày người không dễ thấy, cũng không dễ biết, chẵng khá dùng hữu tâm mà cầu, chẳng khá lấy vô tâm mà giữ.
hữu tâm mà cầu nó thì ngã về nẻo sắc tướng, vô tâm mà gồm nó thì đoạ vào chỗ lặng không, cả hai đều chẳng phải là trung đạo, là ngôi trung chơn chánh.Nó chẳng phải có,
chẳng phải không, mà tức có tức không, nó chẳng phải sắc chẳng phải không mà tức sắc tức không.
Nó chẳng chênh lệch theo mặt nào, phải cầu nó trong cảnh hoảng hốt, phải tìm nó trong chỗ yểu minh, mới là mong gặp được nó.
Thiên hạ học đạo mà chẳng biết chữ trung này là vật gì; hoặc gọi là huyệt huỳnh đình; hoặc gọi là huệyt thiên cốc; hoặc gọi là huyệt bá hội; hoặc gọi là giáng cung; hoặc gọi là minh đường; hoặc gọi là yết hầu; hoặc gọi là khoảng giữ hai thận.
Họ nắm giữ huyệt khiếu ở trong huyễn thân, mà gọi là ''bảo trung thủ nhất''.họ mong đặng trường sinh,mà chẳng những không đặng sống lâu, lại còn chết gấp là khác, buồn thay"
Phần ''kim đơn đồ'' lại viết rằng:
"kẻ thế không rõ kim đơn là việc gì, là vật chi, nên độ chừng nó ở trong thân thể có hình có dạng của ta đây, hoặc tưởng nó là loài kim loài đá luyện thành; hoặc tưởng nó là khí huyệt của con trai con gái kết nên; hoặc tưởng nó là cái tâm giao cùng cái thận mà đọng kết lại; hoặc tưởng nó là do tinh thần quy tụ mà có; hoặc cho nó ở tạo đơn điền, khí hải; hoặc cho nó ở huỳnh đình, nê hoàn; hoặc cho nó ở minh đường, ngọc chẩm; hoặc cho nó ở khoảng giữa hai thận.
Những điều sai lầm như thế, không sao kể xiết, đều là chuyện đưa gạch mà gạt là ngói, nhìn giả mà gọi là chân. cho nên nói: người học đạo như lông trâu, còn kẻ thành đạo như sừng lân là vậy"
Năm 1997, NXB Mũi Cà Mau có ấn hành cuốn ''''''Khí đạo'''''''' của tác giả Lục Lưu, một khí công sư Trung Hoa đắc chân truyền của thái cực môn có nhiều nhận định rất chính xác, phần ''''''''sai lệnh khi luyện khí công'''''''' viết rằng:
* Khả năng sai lệnh:
- Tu sơ cấp khí tụ như kênh lạch, sai lệch vô hại
- Tu trung cấp khí tụ như sông hồ, sai lệch ít di hại
- Tu cao cấp khí tụ như biển cả, sai lệch có hại
Giải thích (Lục Lưu): luyện khí như tụ nước, lúc đầu còn vơi, rót vào thoải mái không sao.Đến mức lưng lửng đã phải chú ý. Khi nước đã cao, sông đã quá đầy thì thành tai họa lụt lội, đến lúc đó mới xảy ra sai lệch đáng kể...
* Phân biệt công pháp chân thật:
- Quyết pháp không thấy trong sách cổ kim
- Công pháp chân thật không giống với những gì viết trong sách cổ kim
Giải thích: Tất cả những gì xưa nay đã công bố ra cho công chúng đều là nền tảng của pháp phổ truyền.Tất cả những gì thuộc về bí pháp của các đại tông phái đều không công bố rõ cho đời nên dù có sao chép được cũng khó mà biết được. Dùng cách này soi vào nội hàm của các công pháp thì phát hiện được ngay dấu vết của việc sao chép, thật giả sẽ được phân biệt.
Phần sai về" ý thủ đan điền" viết:
* Lò lửa lư đỉnh đan điền:
- Lò lửa: chỗ bắc bếp nổi lửa, lò lửa có vị trí xác định
- Đan điền: chỗ lạc hoàng kết thành đan, đan điền không có vị trí xác định
Giải thích: Ngày nay nhiều người cho rằng tập trung ý niệm vào bụng dưới là "ý thủ đan điền" đó là một quan nệm rất sai lầm? Ở bụng dưới đó chỉ là chỗ "bắc bếp nổi lửa", cần có "phi đan", "lạc hoàng", rồi khi ấy mới có thể định vị đan điền được.Nay đan vẫn chưa ló ra, làm sao có đan điền được.
* Chỗ bắc lò nổi lửa:
- Không phải là kết cấu thực thể, chẳng rơi vào cảm xúc bên ngoài
- Trước thận sau rốn, dưới ly trên khảm
giải thích; ngày nay mọi người lấy một điểm nào đó ở mặt da rồi cho đó là nơi thủ khiếu, thật là sai lầm lớn! tiếp xúc của con người vốn ở mặt ngoài của da, nếu thủ ý như vậy càng làm cho khí thường tụ đến mặt da, tiết ra ngoài mà hao tổn dần.Tu vốn là việc tụ khí để tăng tinh, vì sao lại tự mở đập chắn để xả nước?
* Cái mất của thủ khiếu:
- Thủ ý tiếp xúc ở bên ngoài sẽ tạo ra khai khiếu phóng khí
- Tụ hoả nhiệt thì lửa bừng lên tiêu hao hết khí
giải thích:"thủ ý đan điền" lúc cảm thấy nóng, lúc cảm thấy lạnh, lúc thấy khí hành, lúc không thấy, khí tụ thì nóng, khí trệ thì lạnh; tụ nhiều thì thấy trôi chảy dào dạt, thoát ra thì mất. Vì vậy có người thủ khiếu đến hàng chục năm mà vẫn không có công phu. nay xin vạch rõ để uốn nắn, người luyện công pháp này cần hết sức tránh phạm sai lầm đó!
Cái sai của việc "lấy ý lĩnh khí":
* Quy luật vận hành của khí":
- Khí thịnh thì tự vận hành; nếu khí không vận hành thì dẫn nó phỏng có ích gì?
- Khí vận hành hợp với đường của nó, có đường rồi còn đặt thêm đường vào đâu nữa?
Giải thích: Khí vận hành một cách tự nhiên, hình thành trước sau, chủ thứ, hướng đi thuận nghịch, cần chi phải dẫn dắt nó để phạm đến tính tự nhiên của khí?
* Sai lầm của việc đạo dẫn khí:
- Lấy mạch của ý gia thay cho mạch tu vận hành chắc phải sai
- Biến khí nội tu thành khí ngoại tản, tu chính khí không thành!
Giải thích; vòng vận hành của khí đều có đường đi riêng của mình, mạch của đông y là mạch sinh lý bệnh lý, mạch của phật, đạo là mạch công lý tu lý, nguồn cội của chúng hoàn toàn khác nhau, không thể lẫn lộn. Khí của con người thường phát tán ra ngoài, nên cần phải luyện tu, khiến cho khí quy trở bvề tụ ở giữa, nay lại dẫn khí tuần h2nh theo mạch y học mà đưa ra bề ngoài, há chẳng phải là tự làm hao mất khí đã tụ hay sao? vậy ai còn nói theo cái sai đó, thì nên sửa ngay đi!
* Dẫn khí bị mất:
- Khí không đủ mà dẩn sẽ bị hư dương manh động
- Khí thinh tụ m2 dẫn thì sẽ bị hao tản ra ngoài
- Khí tĩnh ở trong mà dẫn thì sẽ làm loạn cơ chế khí
Giải thích: vốn dĩ khí đang tĩnh mà lại dẫn bửa đi, sẽ làm cho khí bị nhiễu loạn, huống hồ còn nỗi lo, khí bị tiêu hao, tản ra ngoài?
* Dẫn bừa nên gây ra bách bậnh:
- Khí không tuân theo đường đi chính thường mà đi ngược ngịch
- Khí không chạy theo đường của nó mà cướp đường đi chéo
- Khí dẫn bừa vào chổ bí kết đút nút lại
* Ba thuyết chu thiên:
- Phù dương chu thiên: vòng vận hành chỉ trên phần ngoài (biểu), là ngụy(giả) chu thiên
- Thần khí chu thiên: vòng vận hành lưỡng nghi, là tiểu chu thiên
- Nguyên thần chu thiên: vòng vận hành tam giới - đại chu thiên
Giải thích: Ngày nay người ta thường lấy noãn khí phù dương tuần hành trên mặt da, chỉ vận hành nổi theo mạch nhâm đốc của y gia, mà gọi là đại tiểu chu thiên, sai lầm quá lắm.
* Cái mất của vòng vận hành nổi (phù chu)
- Lấy ý dẩn khí phạm vào tính tự nhiên
- Nội hkí ngoại dẫn, phạm vào hoà âm dương
- Do con người tuần kinh vận hành, lấy mạch của y gia thay cho mạch tu đạo
Giải thích: Pháp ý thủ hạ nguyên để "bắc lò nổi lửa" là giai đoạn ban đầu xây dựng nền móng của đan đạo môn, lúc này khí phù dương ít tụ mà thường tuần vận.Tuy vậy chuyện khí phù dương thông suốt dồi dào chỉ mang tính nhất thời, cần phải dẫn chúng quy trở về, chớ có dẫn vận làm chúng hao tán mất, tự mình phải biết mà bớt lửa lò! người đời nay không hiểu rõ lý này, khi hkí phù dương mới động đã dẫn hoả vận hành theo đường tròn, còn tự cho đó là "đại tiểu chu thiên". chao ôi, thật ngu lắm! những ai mới học cần chú ý phân biệt!

* Phù dương thông biểu:
- Một là bị hao tán
- Hai là trở ngại đối với việc tu
- Ba là khó bảo toàn
- Bốn là khó chữa bệnh

Giải thích: vòng vận hành của khí phù dương, đối với lĩnh vực tu hành không được tính là nhập môn, đối với công phu không được coi là có trình độ. Cái chính là giữ cái hoà của việc thông biểu. cách làm này khó duy trì được lâu, cần tránh sa vào sai lầm này!
* Tu và động tác:
- Hễ do nội khí dẫn động tạo ra động tác thì đều gọi là tu luyện
- Hễ do con người tạo tác ra động tác thì đều không gọi là tu luyện!
Giải thích: có tu nên mới có tư thế ngoại động, thì tư thế đó chính là tư thế tu, những tư thế của người không tu, chỉ là tư thế bình thường! cho nên tu với không tu, là do bên trong chứ không phải do bên ngoài. Ngày nay người đời thường chấp vào động tác khí công, đúng là bỏ gốc lấy ngọn, bởi vì họ chưa biết vận động vốn không phải là lối tu chân chính của khí công! than ôi, giới nhân sĩ khí công thời nay, mỗi khi soạn động tác, đều đưa thuyết " ý thủ đan điền", "lưỡi chống lên vòm hàm trên", "lấy ý lĩnh khí","đại tiểu chu ,thiên""động công", "tĩnh công", rồi tự sáng tác công pháp, viết thành sách tung ra cho đời, chỉ đạo tập luyện. Ôi chao! nếu gọi đấy là khí công tu chân thì làm sao mà lại không đạt kết quả? nếu đúng như họ nói thì nhày múa ca hát, ăn mặc đi lại đều là công pháp cả ư! Khí công đến mức này đúng là lạm phát quá quẩn.
Các triệu chứng bệnh do tắc nghẽn khí và cách xử lý:
Đan điền là bể chứa tiên thiên khí, khi còn trong bào thai, cửa huyền quan thường mở , chân khí qua đó mà thâm nhập tàng chứa tại đan điền, sau đó phân phối cho ngũ tạng lục phủ, một phần lớn cung cấp cho mệnh môn tiết ra ngoài theo tinh sinh dục để thụ thai, cho nên trong tinh sinh dục có chứa khí tiên thiên, nếu sinh hoạt tình dục quá độ, rút hết khí của đan điền thì thì đan điền sẽ tự động rút khí của ngũ tạng và lục phủ để cung cấp cho hoạt động này, kết quả là sẽ yểu mệnh.cho nên sinh hoạt tình dụng điều độ thì sẽ không hao tổn tiên thiên khí qúa mức, nhưng cũng không cần diệt dục vì đó là quy luật tự nhiên, tiên thiên khí vẫn sẽ hao tổn khi ngủ mê nếu bị dồn nén lại.bàng môn tiểu thuật bày ra thuyết luyện tinh hoá khí thực ra không phải là tinh có thể bốc hơi thành khí mà là trong khi xuất tinh thì tìm cách giử tiên thiên khí lại đưa qua huyệt vĩ lư, đây chẳng qua là cách tiết kiệm chân khí để kéo dài tuổi thọ mà thôi.
Các phép luyện khí công dạy người ý thủ đan điền, nếu ở người có tiên thiên khí bẩm sinh mạnh thì lực lượng ở đan điền sẽ đủ mạnh để đột nhập vĩ lư, nếu không đủ lực lượng thì nó sẽ hút khí ngũ tạng lục phủ ra để làm việc này, vì vậy mà khi mới bắt đầu thủ ý thường không có cảm giác, sau một thời gian thì bắt đầu nhận được khí cảm là do khí từ tạng phủ được hút từ từ vào đan điền.
Khi chân khí ở đan điền đủ mạnh thì nó đột nhập vĩ lư huyệt, thời gian này thường thấy huyệt hội âm nhảy nhót rung động, khí đi qua vĩ lư như dòng nước mát chảy qua, nhưng thường nó sẽ không qua hết, một phần bị tắc nghẻn lại và tồn lưu xuống kinh mạch ở mông và hai chân, người này sẽ mắc bệnh đau giống như đau thần kinh ở mông và chân, bệnh khi nặng khi nhẹ bất thường, trường hợp đau nặng không thể đi lại được.
phần khí vượt qua vĩ lư sẽ tiếp tục đi lên mệnh môn, thời gian này thấy mệnh môn thường nhảy động, sau khi đủ lực lượng tiếp tục thẳng lên giáp tích, đây là cữa ải khó vượt qua, nếu bị tắc nghẽn ở đây thì sẽ bị đau mỏi lưng, người bệnh không thể nằm ngữa khi ngủ, bệnh tăng nặng vào đêm, đau mỏi dữ dội, nơi đau không cố định mà di chuyển qua lại, biểu hiện giống như đau các dây thần kinh ở vùng lưng, ban ngày thì bệnh giảm nhẹ hoặc khỏi hẳn, đêm lại phát bệnh, không gây tổn thương ở xương sống.
Một phần chân khí sẽ vượt giáp tích và tiến lên huyệt đại chùy và phong phủ đột nhập ngọc chẩm quan, đến đây sẽ gặp tắc nghẽn, chân khí sẽ thâm nhập vào cổ họng và lưỡi làm tê cứng vùng họng và lưỡi, lưỡi thường xuyên bị tê đau cứng, đặc biệt khi căng thẳng thần kinh và khi đọc sách các triệu chứng càng tăng mạnh kèm theo nhức đầu, có thể gây ra các chứng viêm xoang, tắc mũi, đau khớp thái dương, đặc biệt triệu chứng dễ thấy bên ngoài nhất là hay ngáp dài, không buồn ngủ cũng ngáp, cứ 5 phút thì lại ngáp một lần, trường hợp này khí không thể nhập ngọc chẩm quan mà bế tắc tại phong phủ, các triệu chứng trên ảnh hưởng vô cùng lớn tới năng xuất làm việc.
Cách xử lý có hai phương pháp:
1.theo truyền thống, dùng ý thủ tại những nơi tắc nghẽn, nhằm tập trung chân khí bị tắc nghẽn lại và vượt ải, lần lượt tập trung lâu dài ở vĩ lư, giáp tích, thiên đột, phong phủ, chỉ tập trung chứ không dẫn khí, để nó tự vượt ải, khi vượt ải thì thấy xương sống bị kéo căng ra đến mức mỏi cơ xương sống, khi không thể chịu đựng được nữa thì chuyển sang huyệt kế tiếp, khi toàn bộ khí đột nhập qua ngọc chẩm quan rồi thì không cần quan tâm nữa, nó sẽ nhập vào não môn.
2.nếu theo cách truyền thống không hiệu quả thì có thể dùng châm cứu tại những nơi bế tắc , nhưng cách này dễ làm cho chân khí bị hao tán.
Những vấn đề liên quan đến huyền quan khiếu và tiên thiên khí
Vấn: tiên thiên khí được hấp thu như thế nào?
Đáp: tiên thiên khí được hấp thu qua khiếu huyền quan, nhờ bắc thượng thước kiều nên nó chạy dọc theo lưỡi có cảm giác như một dòng nước mát , đến gốc lưỡi thì trong miệng tự nhiên tiết ra rất nhiều nước bọt, đây là dấu hiệu duy nhất để nhận biết tiên thiên khí có được hấp thu hay không, tiên thiên khí lúc này nhập vào trong nước bọt, khi đầy miệng thì hành giả nuốt xuống, tiếng nước bọt này đi xuống có thể tạo thành tiếng sôi ùng ùng trong bụng, trạm dừng chân đầu tiên cvủa TTK là giáng cung, chứ không phải là trung đan điền tại huyệt đản trung như các sách vẫn nói, tại đây nó tập trung lực lượng, thường thấy khu vực này nhảy nhót,sôi như sấm động, khi đủ lực lượng rồi thì lưu thông xuống hạ đan điền, lúc này thấy hạ đan điền động khí, thường phát động tình dục, toàn thân bốc nóng,sau khi TTK vượt qua vĩ lư quan thì các hiện tượng trên đều giảm hẳn, quá trình tích luỹ TTK lại liên tục như vậy thông quan huyền quang khiếu, thực hiện quá trình thử khảm điền ly, nếu không biết cách hấp thu TTK qua huyền quang khiếu thì lực lượng khí tại đan điền chỉ đủ lực lượng cho một lần vượt vĩ lư duy nhất sau đó đan điền sẽ trống rỗng, lúc này nếu tiếp tục ý thủ đan điền sẽ thấy cơ bụng bị nén chặt như thể đan điền đang cố sức hút một cái gì đó, đây là đều đáng lo chứ không phải đáng mừng.con đường vận hành của TTK từ huyền quang khiếu như vậy giống như đường vận hành của hệ tiêu hoá chứ không phải là vận hành theo mạch nhâm ở ngoài da.
Vấn: xin chỉ dẫn về huyền quan khiếu
Đáp: trả lời thật khó, xin tạm mượn lời của Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh vậy
Sở chỉ chi phương là Tiên thiên nhất chi khí, đó là tổ khí sinh muôn vật, xưa nay các bậc tiên chân đều hái tổ khí đó, để liễu tính, liễu mệnh. cho nên nói: đắc kỳ nhất, vạn sự tất vậy, đó là nói tới khí đó.
Kim đơn tử thư không dám khinh truyền cang tinh là cái gì, nhất khí là ở nơi đâu, sợ rằng người không ra gì sẽ được, và sẽ bị trời quở trách, Ngộ Nguyện Tử xem sao là do Tổ sư truyền chân tả thần, nếu có tiết lộ đôi chút thiên cơ, mà có chí sĩ nào biết, thì là do họ tâm tri mặc hội, đó là do quỷ thần dạy họ chứ không phải là tội của Ngộ Nguyên vậy ( trích "tham đồng khế trực chỉ")
1. Huyến quan khiếu và tiên thiên khí: là nền móng của tu luyện nội đan, nay tôi chỉ thẳng ra khiếu này ở trong đầu, khu vực sơn căn ấn đường, không phải vô cớ mà thuật tướng mệnh gọi chỗ này là mệnh cung, nhưng không có khẩu quyết khai mở thì coi như vô ích, không thể sờ nắn, mà cũng không thể tập trung để khai mở được, ngoại đạo không rõ nên dùng phép thủ ý ấn đường để mở huyền quan, làm vậy vô tình lại đem tiên thiên khí trong người đi ngược trở ra làm hại tính mệnh, vì thế đan kinh dùng cách nói hư ảo, khiến người ta tưởng là nó không có vị trí cụ thể, mục đích là muốn hành giả không phạm sai lầm thủ ý vậy. kỳ thực nói rằng nó không có vị trí xác dịnh cũng không sai, nhưng đây là chuyện của ''huyền quan lộ xuất'' sẽ nói sau.

Khẩu quyết là :
muốn thái dược, phải không hái mới hái được
muốn thủ được phải không thủ mới thủ được
phải tĩnh định, không dùng động tác mới được
(tính mệnh khuê chỉ toàn thư)

tiên thiên khí còn có tên là chân diên,là nguyên khí, là ngoại dược dùng để lập mệnh
dẫu đắc sư truyền cũng chỉ đến đó mà thôi, từ đây về sau thì tự biết đường mà đi rồi, sách kim đơn chất đầy 3 xe ngựa cũng toàn nói chuyện từ đây về sau cả
2. Ngọc dịch luyện hình: ngọc dịch là nước miếng trong miệng sinh ra để tiếp dẫn TTK dùng để luyện hình, tức là luyện thân xác, nó là của báu dưỡng sinh, có thể cải thiên mệnh, đoạt tạo hoá, làm cho sắp chết mà sống lại được là nó,nuốt được ngọc dịch này qúy gấp ngàn lầm ăn nhâm sâm nghìn năm, chớ lầm tưởng nó là nước dãi sinh ra do dùng lưỡi quét miệng, thứ nước dãi này do ngoại đạo phát minh ra làm gì có TTK trong đó, ngọc dịch sinh ra tự nhiên trên cơ sở hấp thu nguyên khí qua huyền quan, bổ dưỡng thân xác hao tổn,khôi phục lại tiên thiên, làm cơ sở để phục mệnh, thời gian trên dưới 100 ngày thì coi như luyện hình đã hoàn tất.
3. Hoạt tí thời: Ngọc dịch luyện hình 100 ngày xây dựng nền móng để phục mệnh đã xong, lúc này tiên thiên đã tòan vẹn,trời và người chung một nhịp vận hành, đồng điệu cùng nhau, thì sẽ gặp thời cơ'' hoạt tí thời'', là lúc ''nhất dương lai phục'', ''huyền quan lộ xuất'',''nội đan xuất khoáng''
sách ''tính mệnh khuê chỉ'' viết
"lúc ấy là giữa quẻ khôn và quẻ phục, lúc ấy là lúc trời đất đóng mở, là lúc nhật nguyệt hợp bích, là lúc thảo mộc manh nha, là lúc âm dương giao hội trong thân, thần tiên thái dược vào lúc ấy, lúc ấy là lúc nội chân, ngoại ứng, tương phù ,tương hợp như hai miếng ấn tín chẻ đôi.đó chính là thiên nhân hợp phát chi cơ, thật là chí diệu, chí diệu vậy.
Trong khoảnh khắc ấy, một khiếu nhỏ phát sinh, cơ thể mềm như tơ, tim thấy hoảng hốt, dương vật tự nhiên cử phát. lúc ấy dương khí lưu thông tới thương đan điền, thời cơ đã tới.đó chính là hoạt tí thời, hai lỗ mũi sẽ trương nở. đó là lúc thời chí thần hoá, lúc đại dược sản sinh.trong bụng sôi như sấm, và đan điền cũng trương khai.nguyên khí hùng dũng xung tiến vào đan điền,lúc ấy là lúc huyền quan lộ xuất, và là lúc nội đan xuất khoáng"
Lúc này nguyên khí xung tiến qua huyền quan khiếu với lực lượng rất lớn đến nỗi phát ra ánh sáng,phát hiện quan cảnh hồi quang phản chiếu, trên có thể nhìn thấy khiếu huyền quan, dưới nhìn thấu đan điền, nguyên khí hùng dũng vào đan điền, xuyên vĩ lư, vượt tam quan đốc mạch.
4. Huyền quan lộ xuất: nay lại nói thêm về huyền quan, sách ''tính mệnh khuê chỉ'' viết:
"khiếu này gọi là tổng trì môn, là kinh đô vạn pháp, nó không có biên cương, không trong ngoài. không dùng hữu tâm mà giữ được, không dùng vô tâm mà cầu được.
lấy hữu tâm mà cầu, sẽ sa vào sắc tướng, lấy vô tâm mà cầu sẽ lạc không vong. như vậy phải làm sao, thầy

có khẩu quyết là:
khiếu này trống rỗng không bờ bến
biết mà không giữ ấy công phu
trương hoà cảnh nói:
hỗn độn khiếu kia gọi tiên thiên
trong thấy hư vô hợp tự nhiên
từ trước khi sinh tìm ra được
biết ra chắc phải đại la tiên
tư mã tữ vi nói:
hư vô một khiếu gọi huyền quan
giữa lòng trời đất với nhân gian
tám vạn bốn nghìn phân thương hạ
9,3,5,6 liệt tuần hoàn
lớn trùm pháp giới không lưu vết
nhỏ nhập trần ai, chẳng thấy nhan
cái đó gọi là chân tổ khiếu
trường sinh, linh bảo vốn hàm tàng

tiết tữ hiền viết:
thiên địa không trung như lò bễthổi được bễ này sẽ là ai
căn nguyên động tĩnh là do đó
bạn muốn thử xem hãy giơ tay"
huyến quan khiếu là ngôi trung nằm giữa cảnh tiên thiên và hậu thiên, con người và thiên địa đều thuộc cảnh hậu tiên, cùng chung khiếu này giao với tiên thiên là cái có trước thiên địa nhân
thánh nhân ví huyền quan khiếu như ống bể mà con người và thiên địa củng thổi chung thông với tạo hoá
Vì thế trong lúc ''hoạt tí thời'', con người và thiên địa đồng điệu thổi chung ống bễ huyến quan, trong thời khắc mà nhìn thấy cả tiên thiên và hậu thiên, cho nên phát hiện ra ngôi trung này, gọi là'' huyền quan lộ xuất'', nó thông với tạo hoá, nên gọi là không có biên cương là vậy.
Tiểu sử Lưu Nhất Minh
Lưu Nhất Minh (1734 - 1821) là truyền nhân của Long Môn Phái đời thứ 11.năm 17 tuổi bị bệnh nặng, càng uống thuốc, bệnh càng nặng, may gặp được một chân nhân cho thuốc chữa trị. Năm 17 tuổi đi phỏng đạo mọi nơi. Gặp Kham cốc lão nhân dạy cho bí quyết nội đơn, sau bái ngài làm thày.sau đó để cầu tham chứng, ông ở kinh sư 4 năm, hà nam 2 năm, nhiễu đô 1 năm, tây tần 3 năm, đi nhiều nơi khác 4 năm.Trong vòng 13 năm, đọc hết Tam giáo kinh thư. Năm Càn long 37, ông lên chơi Hán Thượng, gặp tiên ông Lưu Trượng Nhân, được ông chỉ điểm.bao nhiêu nghi ngờ trong 13 năm qua đều được giải quyết.
Đoạn tiểu sư trên mô tả một bức tranh chung nhất của những người đắc đạo, trước hết người này phải có bẩm sinh tiên thiên rất yếu kém, đây là một qúy cách ''tuyệt xứ phùng sinh'', ''cùng tắc biến'' là yếu tố tiên quyết để cầu đạo, ông đã bỏ 13 năm cầu tham chứng, lúc đầu bái Kham cốc lão nhân làm thày nhưng chưa học được chân truyền, nên sau đó phải đi nhiều nơi, đặc biệt là đọc nhiều sách của tam giáo để gieo trồng túc duyên, nên cuối cùng nhân đi chơi Hán Thương, gặp tiên ông Lưu Trượng Nhân chỉ điểm chứ không hề bái sư, mà đắc chân đạo, có thể thấy đạo kim đan giản dị thế nào, đến nổi chỉ cần chỉ điềm mà thành. thật đúng là đạo huyền quan khó gặp dễ thành là thế.
Đoạn tiểu sử này tôi thấy hay , có nhiều ý nghĩa nên viết chen ngang vào đây.
Từ chỗ này trở lên toàn nói về ''khí''
Từ chỗ này trở xuống là thuộc về ''đạo''
Lão Tử nói:"còn dùng lời nói được thì không phải đạo"
xưa kia khi Thích, Đạo, Dịch còn riêng rẽ, khi nói tới đạo, có nhiều chỗ đành im lặng
về sau Đạo tham cứu thêm Dịch và Thích mới phát hiện ra chỗ cuối của Đạo mới là đoạn giữa của Thích, lại dùng ''tượng Dịch'' thay cho lời mà diễn được nghĩa lý của đạo.
nay tôi tổng hợp kiến giải của 3 nhà , trong đó lấy tư tưỡng Đại Thừa của Nhà Phật làm kim chỉ nam để nói về đạo, có chỗ nào thiếu sót mong các bậc học giả bác học bỏ quá cho.
5. Nguyên thần: còn gọi là chân hống
kinh Thủ Lăng Nghiệm viết:"Phật bảo ông A- nan và cả đại chúng:"các ông nên biết, mười hai loài chúng sinh trong thế giới hữu lậu, tâm thể giác viên bản giác diệu minh, cùng thập phương chư phật, không hai không khác. Do vọng tưởng, các ông mê chân lý thành ra lỗi lầm. Si ái phát sinh, sinh mê cùng khắp, nên có hư không; hoá mãi cái mê không thôi, nên có thế giới sinh ra; các cõi nước số như vi trần ở mười phương, trừ cõi vô lậu, đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.Nên biết, hư không sinh trong tâm ông, cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống nữa là các thế giới ở trong hư không,..."
Đoạn kinh trên cho ta biết, nguyên lúc ban sơ chúng ta là cái chân tâm diệu minh, do mê vọng trong chân tâm nảy sinh ra hư không, hư không và chân tâm vốn cùng bản chất nhưng đã phân ra chủ thể và khách thể, sau đó trong hư không lại sinh ra các cõi nước, sau nữa thì chính chúng ta bị chìm đắm trong các cõi nước đó.ta có thể hình dung chân tâm như một vật màu trắng rất thanh nhẹ ngày càng nhiểm đen nặng nề sa xuống thấp, rốt cuộc đó chính là chúng ta ngày nay, mục đích của đạo là ta phải gột rửa chân tâm lấm đen này thành ra trắng , từ từ nổi trở lên cao.tức là phải gột rửa các cõi nuớc trong hư không trước , sau đó gột rửa cả hư không trong tâm.Theo Dịch thì nguyên thần của ta lúc ban sơ tiên thiên là quẻ càn thuần dương,
sau bị rơi vào cảnh hậu thiên biến thành quẻ ly có một âm chính giữa hai dương, muốn trở lại thì phải gột rửa hào âm này trở lại thành quẻ càn
nhưng quẻ càn tuy thuần dương cũng vẫn còn tính đối đãi nhị nguyên để phân biệt với âm, quẻ càn này chính là tầng cao nhất của cõi trời vô sắc giới trong tam giới của nhà Phật, kinh Thủ lăng Nghiêm viết:" thức tính vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng; trong chỗ không thể hết, phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn mà không phải còn, hình như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ."
tư tưỡng của đạo gia nguyên thủy là liễu mệnh, tức là trở về quẻ càn thuần dương, tưởng là rốt ráo tột cùng hoá ra vẫn chỉ là cảnh cao nhất trong tam giới của Nhà Phật.
6. Vài nhận thức quan trọng:
vấn:hư không và chân tâm vốn cùng bản chất, nhưng có phân biệt chủ thể và khách thể, vậy rốt cuộc hư không là cái gì?
đáp:chân tâm vốn là quẻ càn thuần dương thì dĩ nhiên hư không cũng là quẻ càn thuần dương , nhưng chân tâm thì biết nhận thức nên là chủ, hư không thì không có nhận thức nên là khách, đạo gia gọi chân tâm là tính, hư không này là mệnh là tiên thiên chân nhất chi khí vậy.
vấn:tiên thiên và hậu thiên là cái gì
tiên thiên là cái có cùng bản chất với chân tâm, nên chân tâm và hư không( tiên thiên khí) thuộc về tiên thiên
hậu thiên là cái không cùng bản chất với chân tâm là các cõi nước sinh ra trong hư không đó.
vấn:làm sao gột rửa chân tâm đã lấm đen( thức thần) thành chân tâm trong sáng
đáp:phải dùng hư không tức là tiên thiên khí mà gột rửa, chân tâm nhiễm trần ví như bình nước dơ, hư không tiên thiên chân nhất chi khí ví như cả đại dương nước sạch, lấy nước sạch từ đại dương đổ mãi vào bình thì nước dơ sẽ biến thành nước sạch.
7. Khảm ly giao cấu: còn gọi là thủ khảm điền ly, tức lấy chân dương trong quẻ khảm xung vào chỗ khuyết của quẻ ly, biến ly thành càn, tức là biến cái tâm phàm thành chân tâm.Đoạn công phu này diển ra tiếp sau hoạt tí thời vậy.
sách tính mệnh khuê chỉ viết:
"Hoàn nguyên thiên viết:
biết đạo âu rành thanh tĩnh lý
ngồi thẳng yên người giữ nê hoàn
Đó là căn bản công phu, đó là học vấn đầu não, đó là thủ đoạn mở cửa trời, đó là linh chương để thoát tử tịch, Đạo lý này là bí mật của thượng thiên , xưa nay tiên phật không dám nói rõ. Cho nên trong ngàn vạn người may mới được một hai người biết.Thật là huyền diệu. lại có những khẩu quyết nói không hết lời.
Người xưa đinh ninh dặn dò rằng: khi chân diên nhập đỉnh, phải khu trừ tạp niệm, đem hết tinh thần, mắt hướng đỉnh đầu, dụng hết tâm trí, trong chớp nhoáng đó, Nguyên thần nguyên khí sẽ giao hợp, tạo hoá sẽ vận chuyển, sấm vang điện giật, cảm thông kiền khôn, bách mạch khai thông, cửu cung thấu triệt, kim tinh quán đỉnh, chân khí bốc lên trời
Trong khoảnh khắc, nhiệt độ nơi thượng hạ đan điền sẽ giảm, đó là triệu chứng đan thành, Hoàng nha bạch tuyết sẽ xuất hiện, nguyên thần nguyên khí, âm dương, hồn phách, như đôi vợ chồng hoà hợp với nhau, phát ra tiếng long ngâm cọp hú.Dương tinh hống tủy ngưng kết như châu.
lúc đó, huyền châu thành tượng, quặng mất, vàng còn, và một điểm kim dịch sẽ rơi xuống chốn cũ huỳnh đình vậy"
huyền châu là chân tâm, nguyên thần được tẩy rửa kết thành viên ngọc ma ni ngày đêm chiếu sáng thượng đan điền.
kim dịch là hào âm trong quẻ ly trở xuống chốn cũ huỳnh đình biến quẻ khảm thành quẻ khôn gọi là kim dịch hoàn đan,tên là nội dược, có mùi vị thơm tho dễ chịu, vậy là khảm ly nay phục lại khôn càn, biến người thành trời vậy.
từ đoạn công phu ''khảm ly giao phối'' cho tới khi khảm ly phục lại khôn càn gọi là liễu mệnh, là một giai đoạn dài, gọi là ''tiến dương hoả, thoái âm phù'', khi ly đã biến thành càn tức là toàn bộ chân âm đã bị chân dương thay thế, lúc này ''thiên môn thường mở, địa hộ vĩnh bế'' tức là trên thì thiên môn khai khiếu, đỉnh đầu phát ra tiếng nổ, chân tâm thuần dương tùy ý xuất nhập đi xuyên qua ba cõi, không chịu chi phối của sinh tử luân hồi nữa, nếu muốn trở lại cõi trần thì được tự tại lựa chọn nơi chốn đầu thai, thường những bậc thượng đẳng căn khí, tổ sư thiền tông là những vị này, nếu chẵng thích tu luyện thì đầu thai là hoàng làm đế tại cõi nhân gian,cho nên người xưa bảo làm vua phải có chân mệnh đế vương là vậy.
''địa hộ vĩnh bế'' tức là dục tình đến đây tự diệt, vì chân dương trong quẻ khảm đã bị hào âm thay thế thành quẻ khôn rồi.
tu luyện chưa tới mức thuần dương thì cũng được sinh lên các tầng trời cõi sắc giới, ở nhân gian thì là các bậc tài danh kiệt xuất, sơn hà đại địa nắm trong lòng bàn tay.
tu luyện đến mức chân tâm thuần dương, xưa nay được coi là mục tiêu cao nhất của ngoại đạo theo cách gọi của Phật bao gồm các đạo bà la môn, yoga, tu thần tiên....tu luyện đến mức này thì lên được tầng cao nhất của cõi vô sắc giới gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ, rồi không thể lên cao hơn được nữa, lúac này hành giả triền miên trong thiền định nhưng không làm sao tách rời chân tâm ra khỏi hư không được, vì càng dụng tâm để tách rời thì càng sa vào sự phân biệt đối đãi nên rốt cuộc lại từ từ sa xuống các tầng thấp hơn, vậy đến đây phải làm sao? đó chính là lý do mà Phật xuất hiện ra đời để chỉ giáo cho ngoại đạo biết con đường phải đi tiếp ra sao, phải làm sao nhảy thoát ra ngoài tam giới thì mới viên mãn được, đức Phật đã chỉ dạy thế nào?
kinh Thủ Lăng Nghiêm viết:
"Lại nữa, A-nan, từ chỗ cao nhất của sắc giới, lại có hai đường trẻ.Nếu nơi tâm phóng xả, phát minh được trí tuệ, trí tuệ sáng suốt viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A-la-hán, vào Bồ-tát-thừa: một loài như thế, gọi là Hồi-tâm-đại-a-la-hán.
Nếu nơi tâm phóng xả, khi thành tựu được sự phóng xả rồi, lại cảm thấy cái thân làm ngăn ngại và tiêu cái ngăn ngại ấy vào hư không, thì một loài như thế gọi là không xứ.
đoạn kinh trên Phật dạy rằng, khi chân tâm thuần dương thì sẽ gặp hai con đường trẽ tại đỉnh cao nhất của sắc giới, nếu tại đây hành giả thấy cái thân còn ngăn ngại bèn tiêu luôn thân vào hư không thì bước tiếp vào vô sắc giới, ngược lại theo con đường khác thì sẽ bước vào Bồ tát thừa, gọi là Hồi-tâm-đại-a-la-hán
Vậy Bồ tát thừa là gì? đó là con đường đi ngược trở xuống nhân thế, thậm chí vào cảnh địa ngục để độ tận chúng sinh
thật là một sự trùng hợp thú vị giữa tư tưỡng đại thừa của nhà phật và chặng đường tu tiến của đạo gia gọi là càn khôn giao phối, lấy chân tâm thuần dương trở ngược xuống giao phối quẻ khôn thuần âm.
8. Càn khôn giao cấu:
Sách "tính mệnh khuê chỉ" viết:
cho đến khi khói tan lửa tắt, khoáng tận, kim thuần.bấy giờ mới được một hạt long hổ kim đơn, tròn tròn, sáng rở rở, như sương , như điện, không phải sương mù, không phải khó, huy hoàng rực rỡ, chói lọi Côn Lôn.Pjóng ra khai thông thiên địa huyệt, htu lại thì ẩn tại Thúy Vi cung( thượng đan điền)
Lúc này dược không sinh cũng chẳng chuyển, tân dịch không đi xuống, lửa chẳng bốc lên,Ngũ khí đều chầu về thượng dương, tam hoa đều quy tụ về đỉnh đầu.Lúc ấy âm tận dương thuần, đơn thục, châu linh, Tử Dương Ông viết:
quần âm tiêu tận, đan thành thục
chuồng lồng thoát khỏi, thọ muôn năm
Cho nên Đường Tống chư tiên, chủ trương thoát xác (nguyên thần xuất khiếu, bỏ lại nhục thể) có đường lối hẳn hoi, có thể tùy ý hoá thân, tự do xuất hiện tiêu thất..
Nhưng châu ở Côn Lôn (đỉnh đầu), làm sao xuống dưới để kết thành thánh thai? nhất định phải nhờ mũi, rồi trộm Linh Dương Chân Khí để đẩy ép nó, dùng thái dương chân hoả để ép nó xuống.Thúc ép lâu dần, linh đan sẽ tự rơi xuống, sẽ chui xuống miệng, trực xạ xuống đan điền. Khoảnh khắc mây tuôn mưa rải, sấm chớp rền vang, đánh tan hết âm khí, và bách linh sẽ quy tụ cả về, y thức như các tai hoa xe đều gom về trục xe, và thất bửa trong con người cũng đều quy tụ nơi đó vậy.
....
Khi mà hai dương trong ngoài kết hợp, khi thánh thai vừa kết, thì phải thường thường quan tâm, cẩn cẩn hộ trì, như rồng con dưỡng ngọc, như thiếu nữ mới có thai, phải đóng chặt đan điền không được cho nó thấm lậu ra ngoài......
Lại trong mọi thời khắc, phải cận thận đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng lưu tâm chú ý như vậy, như tại mẫu thai, phải như si ngốc không biến cải, không được gián đoạn khi nào"
đoạn trên sàch ''tính mệnh khuê chỉ'' viết tối nghĩa, chỉ nêu hiện tượng còn lý luận chưa rõ ràng, không những tính mệnh khuê chỉ mà cả các sách đan thư khác cũng không sao chỉ rõ được tại sao mà càn khôn giao cấu kết thánh thai thì nhảy ra ngoài tam giới, nay tôi đem kiến giải của mình tạm giải thích như sau:
-chân tâm: 3 hào dương
-hư không: 3 hào dương
như vậy quá trình thủ khảm điền ly hoàn tất thì chân tâm thuần dương thực chất là 6 hào dương ( vì chân tâm và hư không vẫn còn dính mắc vào nhau )
-quẻ khôn: 3 hào âm
trong pháp giới có một lý tự nhiên nhi nhiên , không biết sao ra vậy, đó là âm dương hễ găp nhau thì giao cảm phối ngẫu bên nhau, do đó:
-càn khôn giao cấu: 6 dương phối với 3 âm nên 3 âm của hư không tách rời 3 dương của chân tâm phối với 3 âm của quẻ khôn tạo thành một vòng hư vô là thánh thai.
Tại sao vậy, đây là đạo đi ngược, hư vô thuận sinh ra thái cực là chân âm chân dương, nay thái cực đi ngược thì trở lại vô cực, vậy là chân tâm thuần dương tách khỏi hư không liền nhảy vào vòng tròn vô cực này, ra khỏi tam giới( tam giới chính là thái cực).
Tu luyện tới chặng đường này là rất cao, thời nay rất hiếm người đạt tới, sau khi kết thánh thai thì bắt buộc phải sống đời tu hành như các thiền sư mới có thể bảo dưỡng thánh thai không chết non,thiết nghĩ có viết tiếp thì cũng chỉ là những gì chép ra từ sách vở, bản thân tôi chưa có gì để chứng thực tới giai đoạn này nên xin dừng bài viết ở đây.

Thư Viện 1      4   5