Chiếu
Minh Phú Lâm Đàn
Ngày 20 tháng Giêng năm Tân
Mão
( 25 Février 1951)
Thầy
miễn lễ Đồng Tử . Thi : Caolà thấu
ý Thầy truyền Đài lịnh thừa
hành biết cố kiên , Tiên Phật
thành công nhờ nhẩn nại Ông Trời chĩnh
giáo độ người duyên .
Hựu
:
Người duyên kẻ
trí bước chung đàng ,
Trở lại non Tiên hưởng thú nhàn
,
Chánh kỷ xong rồi lo chưởng đức
Hoá nhân kẻo trễ Hội Khoa
Tràng .
Hoà tâm tô điểm căn cơ Đạo ,
Hiệp trí chung lo chấn chỉnh đàn
,
Kịp lúc ban truyền nền chánh lý,
Rước người tỉnh ngộ bước lần
sang .
Hựu
:
Sang Thu mới thấy rõ cơ Trời ,
Lẩn bẩn rồi đây kế đến nơi ,
Lập chí lo tu cho đúng Đạo,
Khuyên con , con khá biết tuân lời .
Thầy
mừng các con nam nữ .
Trường
Thiên :
Thầy biện minh căn dò mọi lẽ
Con xét cho cặn kẽ lời Già ,
Mới tường ẩn ý cao xa ,
Khâm tuân
trên dưới dung hòa cùng nhau .
Bỏ tánh
phàm tự cao tự giỏi ,
Mà cho người
thấp thỏi ương hèn
Cùng là
khinh trọng trắng đen,
Trắng đen Thầy chẳng
chê khen cái nào ,
Đã lắm lúc truyền trao lời ngọc ,
Để cho con thường đọc nghiệm suy ,
Đạo Thầy quí chỗ Vô Vi
Quí trong tâm pháp. Quí chi bề ngoài ?
Con nào có đủ tài thao lược ,
Thì luyện cho đơn dược viên minh ,
Còn hơn chấp trử hữu hình ,
Hữu hình , hữu hoại, thường tình xưa nay .
Nay đến lúc minh khai giáo lý ,
Mới dạy con chúng trí lập thành
Qui-Điều Nội-Lệ Tam
Thanh
Để làm qui tắc lưu hành đời sau
Đừng cố ý làm cao quá lẽ
Cũng đừng cho quá rẽ Đạo Thầy
Trung Dung luật định xưa nay
Làm tròn phận sự rồi Thầy ghi công .
Các
con an toạ và tịnh tâm nghe Thầy dạy
Thầy có dạy rằng bổn " Nội-Lệ " để tự các con làm
lấy, nhưng về khoản" Nghi-Dung "
có vài đặc điểm mà từ xưa đến nay các con
Tiền Giang và Hậu
Giang xô xát nhau về tinh thần , chống báng nhau về
ý kiến, mãi cho đến
ngày nay đã bao phen Thầy dụng cam ngôn mỹ từ để
giải bày cho các con
tận tường yếu lý mà các con cũng chưa đi đến chỗ
dung hòa với nhau
đặng, nên chi Thầy phải giải rành những chỗ trắc ẩn
có liên quan đến
Thiên Cơ diệu lý, mà vì chỗ kiến văn hẹp
lương, các con không bao giờ
đoạt thấu .
Các con nên hiểu rằng trong Trời Đất thì có năm
màu chánh, Năm màu ấy
có thể biến chuyển ra thành ra màu ngàn sắc
khác mà năm màu ấy là : Vàng, Xanh Trắng, Đỏ, Đen, gọi là ngũ sắc.
Thể theo lẽ Đạo thì ngũ sắc
ấy biến ra ngũ hành là : Kim , Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ,
rồi ngũ hành ấy mới
sanh ra ngũ khí là Huỳnh, Thanh, Bạch, Xích,
Huyền. Các con nhờ phép
Đạo vận chuyển cho ngụ khí ấy triều ngươn thi chơn nhơn hiện xuất tức
là thành Đạo vậy . Trong năm màu đó , Thầy
đã dùng hết ba màu là : Vàng , Đỏ, Xanh, tức là " Tam
Tài " cho tam Giáo về cơ Phổ Độ. Còn lại hai
màu là Đen
và Trắng, tức là " Lưỡng Nghi " thì
dành cho phái Vô Vi Tam
Thanh . Lúc còn tại thế thì Thầy dùng khăn
Đen. Nhưng khi đi đến bán lộ
trên con đường Đạo, là lúc Cơ Đạo đặng vận chuyển,
Thầy vì muốn cho cơ
Đạo mau thành nên mới dạy cho mỗi con sắm một bộ khăn
áo thể theo Bát
Quái Hà Đồ, một là để tuợng trưng rằng Đạo Thầy luyện theo Đồ Thơ
Bát
Quái, chiếc khảm điền ly, CÀN KHÔN nghịch
chuyển cùng là lấy lẽ âm
dương tương cảm tương sanh, nên mới dùng khăn màu
Trắng bao trùm màu
Đen. Nhưng vì lẽ Thầy dạy các con mà Thầy
không mặc nên các con chẵng
dám dùng. Mà đó cũng do nơi Thiên
Ý, vì chúng sanh tội lỗi còn nhiều,
nên cơ Lập Giáo của Đạo Thầy phải trễ hết mười hai năm .
Chớ chi khi
trước mà các con làm y theo lời Thầy dạy đặng,
thì giáo lý đã lập thành
12 năm về trước .
Mãi đến lúc xuống Cần Giang (1) Thầy mới dụng chỗ
Vô Vi mà làm tượng trưng
cho Đạo, vì vậy mà Thầy mới chỉ cho HỒNG (2) sắp đặt trên
Thiên Bàn thể
theo Bát Quái, tám món tượng hình
tám cung , rồi nơi giữa lấy lư hương
làm trụ cốt, tức là Thái Cực sanh Lưỡng Nghi biến
ra Tứ Tượng, phụ vào
Tứ-Cá Âm-Dương cộng thành Bát Quái .
Rồi đến khi Thầy qui liễu thì các
con ở Hậu Giang đều để tang cho Thầy đến ngày nay mới có
đủ hai màu Đen
Trắng , và cũng nhờ ở chỗ Âm Dương tương khắc tương sanh
cho nên sau
khi Thầy qui liễu đến nay mới có nhiều kẻ giác ngô
tu hành .
Đó là Thầy nhắc lại những chuyện đã qua và
cũng vì chỗ diệu lý Thiên Cơ nên từ xưa nay
không khi nào Thầy thố lộ .
Nay đến thời kỳ
chỉnh giáo, những lẽ ấy không còn ứng dụng nữa,
cho nên
Thầy mới dạy các con dung hòa nhau mà sắp đặt cho
có qui tắc duy nhứt
mà thôi , chớ Thầy
không cho Đen là đúng mà cũng không
cho Trắng là
đúng Đạo .
Vã lại, hễ khi Đạo thành thì
nê-hoàn-cung phải mở rộng rồi ngươn thần
mới xuất nhập đặng. Nghĩa là Càn phải trở thành
Khôn, Càn thì tam-liên,
còn Khôn lục-đoạn; Càn thuộc Dương, Khôn
là Âm. vậy thì không còn dụng
lấy cung Càn mà bao trên nê-hoàn đặng
nữa. Còn Khôn thì thuộc Âm cũng
không dùng đặng. Vã lại chiếu theo phép Đạo,
thi vận chuyển huyền khí
mà luyện thành bạch quang , cho nên lúc Đạo
thành chỉ hoặc dùng màu Đen
hay màu Trắng cũng đặng, nhưng không nên tượng
hình cung Càn lên trên
là vì đã qua thời kỳ Đạo Chuyển rồi .
Hiện nay các con còn phân vân bất nhứt ,
còn Thầy thi từ bi không nở xử
ép Tiền Giang phải theo Hậu Giang hay Hậu Giang phải theo Tiền
Giang .
Nếu các con tự dung hòa với nhau không đặng
thì Thầy chỉ lấy lẽ Vô Vi
mà ứng hóa cho, như thế các con không
còn ngờ vực nữa . Vậy về khăn Đen
hay Trắng cùng cách thờ-phượng theo Đạo Khai hay Đạo
Chuyễn thì Thầy
định như vầy :
Trước hết các con lập thành Ban Chỉnh Giáo, có
đủ nam nữ 12 đệ tử, rồi
các con thiết lập một đàn nơi đây có đủ trọn
Ban Chỉnh Giáo thành
nguyện, để nơi Thầy do lẽ Vô Vi mà định đoạt, đừng con
nào xen ý muốn
chi vào đó. Rồi các con làm 4 lá
thăm cuốn tròn để nơi Thiên Bàn, 2 lá
đựng trong một dĩa nhỏ để phía bình bông thi
biên ở trong một lá thăm :
" thờ theo kiểu Đạo Khai " còn lá thú hai
thì " thờ theo Đạo Chuyển " .
Còn dĩa khác cũng dùng hai lá thăm để
bên dĩa trái , trong lá thứ nhứt
thì đề " khăn màu Đen " còn lá thứ
nhì " khăn màu Trắng " .
Khi đọc kinh cúng rồi, đọc bài cầu cơ ba lượt, bài
mừng 3 lượt , nhưng
không dùng cơ bút, rồi một con hoặc DƯƠNG hoặc HỒNG
thay mặt bắt ra một
lá thăm để xuống bàn cơ, đoạn mới thỉnh 1 keo , khi Thầy
chứng cho nhứt
âm , nhứt dương rồi, các con cứ do mà hành
chẳng đặng trái lịnh .
Khi xong rồi hết , Thầy sẽ định ngày tiếp dạy về cơ Chỉnh
Giáo .
Thầy ban ơn chung .