Thi văn
Ngày 25-8-1925 (âl 7-8-Ất Sửu).

THẦN SƠN QUAN TỔNG THỐNG TÔNG KIM
DIỆU VÕ TIÊN ÔNG

THẬP THỦ LIÊN HOÀN :
1. Âm dương tuy cách cũng Trời chung,
Thấy trái nên đây mới tỏ cùng.
Thắt dạ thuyền xưa không đậu bến,
Đau lòng hạc cũ chẳng về tùng.
Cúi đầu đành chịu thân trăm tuổi,
Ngước mắt ngơ trông bặt chín trùng.
Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy,
Hay chi cá chậu với chim lồng.
2. Chim lồng bao thuở lại non xanh,
Ngóng mắt trông vơi chốn thoát mình.
Dựng nước chẳng ai tài tướng lược,
Liều mình thiếu kẻ đáng hùng anh.
Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố,
Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh.
Thìn dạ chờ châu về hiệp phố,
Nơi mình sự nghiệp mới tan tành.
3. Tan tành nhớ đến gánh giang san,
Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng.
Phú quí mồi câu con hạc lánh,
Đỉnh chung gió thổi đám mây tàn.
Đợi thời toan mượn cần câu Lữ,
Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.
Ly loạn gặp thời đời muốn chán,
Công danh phủi sạch hưởng thanh nhàn.
4. Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên gia,
Trị loạn hằng xem thế nước nhà.
Bể hoạn dập dồi thương bấy trẻ,
Thành sầu chất chứa thảm cho già.
Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm,
Nhăn mặt nước chờ trận gió qua.
Thân ái mối dây tua nắm chặt,
Chít chiu ấy cũng một bầy gà.
5. Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.
Nắng hạn trông mưa trông mắt mỏi,
Đắng cay mộ nước mộ lòng chờ.
Ngoài khua tiếng giặc trong khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung quốc thiếu cờ.
Trí chúa tôi hiền không gặp chúa,
Nào người gánh nổi mối xa thơ.
6. Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng vững bền ?
Đắp lũy Cổ Loa chưa mấy mặt,
Lấp hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.
Thăng Long bao thuở nâng hùng khí,
Gia Định từ nhiên chấp ấn quyền.
Sông núi dật dờ chờ tạo khách,
Hóa sông nên giạu, núi nên thiềng.
7. Nên thiềng khi trước lập công danh,
Chín bệ xem qua chẳng trí quân.
Ích nước xủ tay khoe đẹp áo,
Lợi nhà vỗ bụng dưỡng tròn thân.
Nam Giao vắng vẻ đường cung kiếm,
Văn miếu khô khan ngọn bút thần.
Danh vọng ru hồn quên thổ võ,
Thẹn nòi bộc lại mộ đai cân.
8. Đai cân đã có vẻ chi chưa,
Hay phận tù lao kiếp sống thừa.
Đạp đất gập ghình bầy trẻ dại,
Ngừa thời đ iên đảo trí già xưa.
Ngồi hang thương kẻ mang da chó,
Ngự điện ghét quân đội lốt lừa.
Cái nhục giống nòi sao chẳng rửa,
Xoi hang mạch nước ý chưa vừa.
9. Chưa vừa mộng mị với tây tà,
Vụ xác vong hồn dựa phách ma.
Tiêu hủy thân cây lằn lửa táp,
Tan tành hình nộm trận giông qua.
Rước voi phá mả đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong nhiễu điện tòa.
Đổ lụy hỏi người sao chẳng nhớ,
Ngọn rau tấc đất nước nhà ta.
10. Nước nhà ta có tiếng anh phong,
Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc Hồng.
Nam Hải trổ nhiều tay Thánh đức,
Giao Châu sanh lắm mặt anh hùng.
Tinh trung lửa thét thành Bình Định,
Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Đông.
Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công.
(ĐS. I. 12)
Ngày 4-11-1925 (âl 18-9 Ất Sửu).
NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG

THẬP THỦ LIÊN HOÀN :
Thi họa vừa khi bước hứng nhàn,
Vòng trần luân chuyển luống lo toan.
Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,
Hằng biết cho dân chịu buộc ràng.
1. Buộc ràng túng thiếu cõi Nam Châu,
Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.
Phép nước đòi cơn mây gió thảm,
Nghiệp nhà lắm lúc nước non sầu.
Thương đời để dấu noi người trước,
Hiệp chủng làm gương dắt lũ sau.
Cá chậu chim lồng chi dễ chịu,
Rừng xưa bến cũ thảnh thơi đâu ?
2. Thảnh thơi đâu buổi nước non nhà,
Nam đảnh hầu xem trận gió qua.
Ứa mặt ướm nâng nền võ trụ,
Bền lòng chờ đợi bến sơn hà.
Dập dồi bể hoạn thương bầy trẻ,
Lắc lở thuyền du hổ phận già.
Cũng muốn lẫy lừng xây thế cuộc,
Vòng trần ngặt đã bước chân ra.
3. Bước chân ra khỏi ngậm ngùi thay,
Nỗi ước nhiều phen khó cạn bày.
Rừng trước tuy vui chung rượu thắm,
Ơn xưa đâu lợt tấm lòng ngay.
Rèn tâm khá nắm dây thân ái,
Giữ dạ đừng quên mối cảm hoài.
Biển khổ mang bầu chờ tế độ,
Giựt giành chi khỏi trả rồi vay.
4. Trả rồi vay tua vẹn lòng son,
Bia cũ gương trung dấu vẫn còn.
Đội mão khỉ ngồi non hớn hở,
Lìa rừng cọp ngóng biển thon von.
Nào khi đất Việt trời ngang dọc,
Chừ lúc vùng Nam phận cúi lòn.
Xương thịt cũng đồng nhơn loại thế,
Vày bừa há chẳng hổ sông non.
5. Non sầu cỏ nhuộm đã phơi sương,
Thành cũ đường xưa cảnh để buồn.
Vạc ngã người đày trâu ngựa kéo,
Gia tàn yến rủ gió mưa tuôn.
Vật còn biết mến ngày thong thả,
Mình há đâu quên chỗ cội nguồn.
Vầy hiệp đồng tâm liên ái kết,
Cường quyền sức mọn dễ chi sờn.
6. Chi sờn máu thịt mảnh thân phàm,
Danh lợi mồi câu nhử tánh tham.
Ví biết trọng mình nhà nước trọng,
Đừng quên tham nhục giống nòi tham.
Non sông chẳng đổi theo lời nói,
Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.
Un đúc lòng thành chờ máy tạo,
Có ngày khuấy nước dọc trời Nam.
7. Trời Nam vừa thọ ánh dương quang,
Cương tỏa tiêu tan thấy cảnh nhàn.
Vần vũ suối bờ Thần tiếp Thánh,
Ồn ào bến nghé quỉ xô quan.
Hồn trung vì nước hơi vừa tỉnh,
Mắt trí xem dân đã hóa làn.
Hồng Lạc giống nòi dầu thoát ách,
Là hai mươi triệu kẻ đồng gan.
8. Đồng gan mới biết đặng đồng tình,
Biết máu thịt mình mới biết binh.
Lợi lộc của nhà thì cứ lấy,
Thế quyền trong nước há ngồi xin.
Tróng gông nô lệ sao ham muốn,
Hình bóng quan viên xúm giựt giành.
Lịch sử chép biên bao vẻ đẹp,
Ai từng đem nhục đổi làm vinh.
9. Làm vinh chẳng nghĩ thẹn non sông,
Chín suối ông cha nhẫng tủi thầm.
Buồn thấy giống Hồng thây chúng xẻ,
Thảm xem dòng Lạc thịt người bầm.
Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,
Chín bệ ngày nay quỉ nhảy đầm.
Rút vỏ gươm linh ta quyết một,
Chẳng cho kẻ nghịch đặng ăn nằm.
10. Ăn nằm nín nẩm đợi chơn quân,
Ta quyết sẽ cho kẻ hạ trần.
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
Thái bình trăm họ nhìn chơn chúa,
Thạnh trị ba châu trổ trí Thần.
Độc lập gần ngày vui sắp đến,
Bỏ cơn đất Việt chịu tam phân./.
Chiêu tập hồn thi bước Đạo dìu,
Non xưa chớp cánh nhạn trông theo.
Trời thanh khách gắng lần qua khỏi,
Đêm rạng trăng soi lướt khỏi đèo.
Mây khỏa đảnh Tần màu gió cuốn,
Thuyền khơi sông Bích cánh buồm treo.
Giang san một dãy nên chung dựng,
Biển cả chi nao ít mái chèo.
NHÀN ÂM ĐẠO (ĐĐTrN.14)
cho THANH THỦY (Cao Hoài Sang)

Bước đời chìm nổi bấy nhiêu niên,
Tâm chí ghe phen dập lửa phiền.
Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.
Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,
Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.
Nín nẩm chờ ngày tiền quả sạch,
Trau giồi đạo hạnh hưởng ân Thiên.
DIÊU TRÌ NƯƠNG NƯƠNG
* * *
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm nở,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruổi đường hòe há nhọc roi.
Nìn nẩm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn lòng chúng có lượng đôi thoi.
CAO HOÀI ÂN
(Thân phụ của Ngài Cao Hoài Sang giáng cơ)
(ĐĐTrN. 14)

Ba vị Tiên Nương DTC
tặng tài Thanh Sơn Đạo Sĩ :
Hay Thanh Sơn ! Giỏi Thanh Sơn !
Trung nghĩa về Tiên cũng ngậm hờn.
Cẩm tú thêu oan thành khí giới,
Văn chương khảo tội hóa côn quờn.
Rung chuông tỉnh thế ba kỳ thức,
Hồi trống truy hồn bá tánh khôn.
Trị loạn sấn tay nâng vạc ngã,
Anh linh muôn kiếp nước Nam đồn.
LỤC NƯƠNG DTC
Tài Thanh Sơn ! Trí Thanh Sơn !
Câu văn tuyệt bút vẽ nên hờn.
Giục lòng chí sĩ chưa vừa sức,
Múa viết Thần Tiên đủ chấp quờn.
Dệt thảm lê dân Trời cám cảnh,
Khêu sầu xã tắc Đất kinh hồn.
Nắn nhồi trí huệ thành binh khí,
Rèn chất anh thư đắp lũy đồn.
THẤT NƯƠNG DTC
Trung Thanh Sơn ! Nghĩa Thanh Sơn !
Bởi tại đâu ăn oán nuốt hờn.
Nát mật khó xem nhà vắng chủ,
Bầm gan há chịu nước không quờn.
Câu văn ái chủng gần dân khí,
Tiếng sấm ưu hương định quốc hồn.
Lập chí ôn nhu là đắp lũy,
Nung lòng đạo đức ấy xây đồn.
BÁT NƯƠNG DTC
Bài thi điệu Động đình :
của LỤC NƯƠNG

Đầm ấm cảnh trời mai ác lố,
Thơ thới đưa thuyền khổ khách chèo.
Nhấp nhô lượn sóng khỏa lèo,
Luồng đông gió tạt cánh bèo ngưng sông.
Một chiếc quạnh bóng hồng nháng ngọn,
Mây đoanh non tuyết đóng nhành thông.
Về nam đổ cánh rừng tòng,
Ngút xem tủa án cây đông khỏa rèm.
Đường xúm xít chị em ruổi bước,
Dắt dìu nhau kẻ trước người sau.
Tìm nơi hứng giọt mưa rào,
Để cơn khao khát khoe màu phù dung.
Đờn nhắn khách năm cung nhặt trổi,
Vẹt mây đen gió thổi chiều hôm.
Quang âm ngày tháng dập dồn,
Ngừa khi trễ bước hoàng hôn trở đường.
Non Thần tiếng hạc chầu vang đảnh,
Chờ rước người ngay chánh dẫn đường.
Mơ màng chưa tỉnh huỳnh lương,
Sóng xao biển khổ nên thương khách trần.
LỤC NƯƠNG
(ĐĐTrN. 15)

THANH TÂM TÀI NỮ
Mượn nguồn đạo đức khỏa màu trần,
Luyến thế ngày qua khó kịp xuân.
Bến khổ trương buồm thuyền đợi khách,
Non Tiên trở cánh hạc chờ xuân.
Xuân mệt mờ bao nhiêu cảnh ủ,
Cụm rừng tòng lá xủ tranh sầu.
Biết bao mấy nỗi tang dâu,
Bóng trăng kia đã đứng đầu tuổi xanh.
Xanh vàng ngọn cỏ trải mồ hoang,
Oan trái trả vay khách nhộn nhàng.
Nhàn cảnh mấy ai tìm đến chốn.
Chốn bi ai luống nhọc nhằn than.
Than rằng : Cõi phù sanh nháy mắt,
Trăm năm đâu biết chắc rủi may.
Đua tranh sánh của so tài,
Của tài phủi sạch đường dài thoát qua.
Gắng lo xa . . . . . . . . .
(ĐĐTrN. 18)
* *
Liệu mà day trở bước thang xuân,
Một dặm đường qua Đạo một gần.
Sóng dậy tang thương hồng chích cánh,
Trời dìu thưởng phạt họa đồng cân.
ân thiêng liêng chất đồng tội phước,
Gặp thời tua vẹn đức trọn nhân,
Dịp may dễ có mấy lần,
Dò đường đến chốn non Thần mới hay.
Hay biết đời sao, Đạo lại sao ?
Hay gần cửa Thánh bước lần vào.
Hay tìm nẻo chánh, tà xa lánh,
Hay tập thanh cao chí mới
THANH TÂM TÀI NỮ
(ĐĐTrN. 20)
H. M.
Rảnh nợ thế, rừng thung vui thú,
Chiều hứng nghe vượn hú chim chiền.
Một ngày thong thả là Tiên,
Suối trong rửa sạch não phiền trần gian.
Vòng cương tỏa buộc ràng danh lợi,
Chốn hý trường lui tới lăng xăng,
Phép quan luật nước thúc dằn,
Đỉnh chung rốt cuộc mơ màng chiêm bao.
Đâu là thấp đâu cao phẩm thế,
Nhục vinh kia ai dễ trọn đời.
Cõi trần kiếp sống mấy hơi,
Phủi tay phút đã châu rơi ngọc trầm.
Hỡi ai là khách tri âm ! . .
(ĐĐTrN. 19)
gió đêm trăng bóng rạng thinh,
Nghêu ngao non Túy thú riêng mình.
Thu về hứng cảnh đôi bầu cúc,
Hạ đến vui sen mấy chén quỳnh.
Nhàn dạo vẩn vơ theo Nhựt Nguyệt,
Rảnh ngồi chậm rãi tụng HuỳnhĐình.
Tranh đua giũ sạch lằn phi thị,
Gặp buổi giang hồ vớt chúng sinh.
NHÀN ÂM ĐẠO (ĐĐTrN.20)
Ngày 13-2-1926 (âl 1-1-Bính Dần) : TẾT Bính Dần.
CAO ĐÀI

Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng cần hạ giới vọng cao ngôi.
Bần sang trối mặc tâm là quí,
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.
(TNCT. TTT. 116)
Ngày 23-2-1926 (âl 11-1-Bính Dần).
Đức Chí Tôn cho Ông Trần Duy Nghĩa :

Đạo tâm rỡ rỡ sáng như ngày,
Hiệp cũng may mà gặp cũng may.
Đã mộ trong lòng thân cũng mộ,
Một lòng mộ Đạo chớ nên sai.
(TNCT. TTT. 115)
Ngày 27-2-1926 (âl 15-1-Bính Dần).
Đức Chí Tôn cho Ông Phạm Văn Tươi :

Một nhà sung túc hưởng ân Thiên,
Mối Đạo từ đây đắc sở truyền.
Giáo hóa dày công giồi đức hạnh,
Cháu con sau hưởng phước liền liền.
Đức Chí Tôn cho Ông Phủ Nguyễn Ngọc Tương :
Con trị ai, Thầy cũng trị ai,
Một lòng đạo đức chớ đơn sai.
Năm năm công quả tua bền chí,
Chỉ dẫn nhơn sanh bước lạc loài.
(TNCT. TTT. 119)
Ngày 3-4-1926 (âl 21-2-Bính Dần).
Đức Chí Tôn cho Ông Ca Minh Chương :

Thế thượng hề vô bá tuế nhân,
Thất tuần dĩ định vấn thời quân.
Ưu tư mạc vọng thường vô lộ,
Nghiệp trái tùy căn định số phần.
(TNCT. TTT. 169)
Cuộc đời càng nghĩ lại càng gay,
Ngặt nỗi Thiên cơ chẳng dám bày.
Rắn núp dưới hang coi ngựa chạy,
Khỉ ngồi trên ngọn ngó gà bay.
Đông Tây chộn rộn Trời thay xác,
Nam Bắc ê hề đất chở thây.
Nhơn vật mười phần hao chín tám,
Thần Tiên thấy vậy cũng chau mày.
(TNCT. TTT. 125)
Thứ ba, 11-1-1927 (âl 8-12-Bính Dần).
THÁI BẠCH

Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy :
Lão viết chậm, Thượng Phẩm Hiền hữu dặn Sĩ Tải phải viết cho cẩn thận.
Điệu văn Động Đình, Lão dạy chư Tiên, chư Phật, sau có truyền cho Bạch Vân Đạo Sĩ gọi là Trạng Trình, song người học đặng có một điệu truyền thế gọi là điệu Bạch Vân.
Lão lấy đề “ NGỤ ĐỜI “ nghe.
NGỤ ĐỜI
1. Đời hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Đạo truyền.
Nhẫng lo tước trọng cao quyền,
Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành là rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.
Sắc
Tài
Tửu
Khí
Lưng vơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm thần huệ dứt lần trái oan.
2. Vụ chữ nhàn
(12-1-27) Mến giang san
Phế bủa quan
Ngừa trị loạn
Xem qua như chốn hý tràng,
Lẻ loi mặt nịnh, lỡ làng phận trung.
Chẳng ai nắm kiếm thư hùng,
Thành nghiêng khôn đỡ vạt rùng khôn nâng.
Sĩ dân
Soái tướng
Quân thần
Chinh chuyên thay, phận phàm nhân,
Đỡ nương chẳng biết dựa gần người binh.
_______________________________
Giải nghĩa :
1. là điệu Thái Cực.
2. là điệu Lưỡng Nghi.
Thầy là cội, chúng sanh là lá . . .
Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà dứt oan trái đặng tu tâm dưỡng tánh, hầu vụ chữ nhàn.
Rùng là sung sướng. Thư Hùng kiếm của Trương Tử Phòng dâng cho Hàn Tín.
Cái phận phàm nhơn chịu lắm nỗi chinh chuyên. Chinh là nghiêng, chuyên là chở. Chở nghiêng là chở nặng nề.
Thần huệ kiếm : Huệ trí dĩ vi kiếm tác đạo dã : lấy trí huệ làm gươm mà hành đạo.
3. Nghe thấy bắt động tình
(13-1-27) Dân dưới phép tụng đình
Nước dưới phép đao binh
Nhà dưới phép luật hình
Còn chi hai chữ thái bình
Ngửa nghiêng chín bệ, gập ghình ba châu.
Non sông nhuộm một màu sầu,
Nền Giao cỏ loáng, sân chầu sương phong.
Dân chẳng hiệp đồng
Quan chẳng vị công
Vua chẳng phải dòng
Về đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu bóng cờ bặt tăm.
4. Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm,
Cũng xương cũng thịt,cũng khí cũng huyết Nam,
Cũng văn cũng pháp, cũng phong cũng tục Nam,
Cũng xã tắc cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ, thân hình một nơi.
Giải nghĩa :
Vậy thì gọi là điệu Thái Cực là sao ? Lão chỉ cho Thượng Phẩm.
Đọc lại Bài số 1, khi nhập đề như vậy là không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là nhập Hư Vô.
Thái Cực là vì có 1 tiếng. Nhập lại Hư Vô.
Bài số 2, ba tiếng là Tam Giáo.
Sĩ dân, hai tiếng là Lưỡng Nghi.
Bài số 3, ngũ ngôn ấy là Ngũ Chi.
Bốn chữ : Tứ Tượng là đó.
Bài số 4 : Chín chữ là Cửu Lưu đó.
Tám chữ : Ấy là Bát Quái.
Lão sẽ tiếp điệu Biến hóa vô cùng, rồi mới kết cho toàn điệu.
(Bốn bài kia rồi rồi, bây giờ lấy lại số I, Lão tiếp nữa :)
I. (NÔNG) Ấy cũng gọi đời
(20-1-27) Nhơn vật khác vời
Vị chữ kim thời
Phong dời tục đổi
Điền viên đất nổi lên vàng,
Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.
Tròn năm luống phận cần cù,
Không nuôi thê tử, không bù thân sanh.
Nhỏ tùng đinh
Lớn tùng binh
Già nằm canh
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan nút, mỡ dành làng ăn.
Thân trâu phải chịu nhọc nhằn,
Đòn roi lão mục, tiếng dằn thằng chăn.
II. (CÔNG) Phải tùy phương nắng, giỏi dắn dai dù,
(21-1-27) Một thổ võ xưa kia nên tuấn tú,
Bị tay phàm làm xấu nét phong quang.
Ôi ! Thương thay cho cẩm tú giang san.
Đầy sông ngui ngút khói thuyền,
Đầu non súng giữ, cuối triền gươm đoanh.
Công dân đắp lũy bồi thành,
Tay mình lại cột lấy mình thảm thay !
Nỗi lương tháng bổng ngày,
Nỗi tiền hỏi bạc vay,
Nỗi trả thuế đóng bài,
Thợ hay dầu đủ sức tài,
Giũa đêm chẳng đủ, bào ngày không kham.
Miệng ăn quá sức tay làm,
Thê nhi thiếu kém, thân phàm chẳng no.
III. (THƯƠNG) Cũng trò
(22-1-27) Lợi bỏ
Không lo
Cướp to
Giựt nhỏ
Trường thương lấp ló ít người,
Nơi tay dị chủng như trời nắng mưa.
Quốc dân ăn thải uống thừa,
Khôn ngăn bán lận, khó ngừa buôn gian.
Cửa Sài gòn tính toán, áp chế nội hàng,
Gạo bắp chở ngoại bang, giành phần xuất cảng.
Dùng mưu phản gián Nam bang,
Đoạt thâu cho sạch vàng ngàn bạc muôn.
Nọc ăn máu nước thúi ruồng,
Khô khan Lạc khí, hao mòn Hồng tinh.
IV.(SĨ) Tính toán vốn lời mình, đừng chịu làm thinh e lỗ vốn.
(23-1-27) Kìa quan viên Chức sắc bôn chôn, cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh lính tổng làng chộn rộn, cũng lũ ngu ăn hổn,
Mua phẩm hàm tước hộ cầu tôn,tiền ngàn không sợ tốn.
Cửa công huyện mãn nha còn,
Dạ thưa lưỡi mỏi, cúi lòn lưng cong.
Lằn xanh ưa hửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ, mến vòng tôi con.
Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,
Rủi phải cơn túng thiếu, chịu người níu kẻ đòi,
Đã quen tiếng buộc lời lơi,
Gian làm ra phải, lỗi dời thành ngay.
Dày công đếm số mề đai,
Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.
Giải nghĩa :
Bài I : Trên là Tứ Thời, giữa là Tam Tài, gọi là điệu văn Tam Tài.
Bài II : Trên là Bát Tuyết, giữa là Ngũ Hành, gọi là điệu văn Ngũ Hành.
Bài III : Trên là Lưỡng khí, giữa là Cửu Thiên.
Bài IV : Trên là Thập nhị Thời, giữa là Thập Điện Diêm Cung, gọi là điệu văn Thập Điện.
Chỉ rõ ràng Bát Quái, Bát Quái đã biến đủ nhứt Âm nhứt Dương.
Lão tiếp thêm cho đủ 12 điệu văn gọi là Thập nhị Khai Thiên Động Đình Hồ.
V. (NGƯ) Có chi ham
(24-1-27) Nguồn nước cấm
Thủy lợi thâu
Chiếc thuyền câu
Ra thủ phạm
Nghề xưa hạ bạc đã nhàm,
Nay dân đói khó ra làm không no.
Lúc giăng lưới, khi đóng nò,
Mảng lo tàu chặt, nhẫng dò bè trôi.
Cá chê mồi
Bởi quen muối
Khôn tránh lưới
Nào khi nguyệt giỡn sóng cười,
Thú hay mặt nước chơn trời ngửa nghiêng.
Kinh luân đứt nối khó truyền,
Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư công.
VI. (TIỀU) Song vẫn cũng một lòng
(25-1-27) Thân đói khó như nhộng
Hỏi ăn chi đặng sống
Rằng hớp khí thanh không
Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.
Cây ăn lưỡi búa đã mòn,
Rừng cao hết củi, nồi còn không cơm.
Lão lục ngó lườm lườm,
Chú săn đơm khẩu súng.
Non xanh vắng gót anh hùng,
Bỏ cơn Võ Kiết lánh vòng Văn Vương.
Thành Thang buông mặt lưới trương,
Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu.
Nạn củi quế gạo châu,
Thiên sầu Địa thảm !
(Tạm ngưng)
CHÚ THÍCH :
Bài I : Nói về NÔNG.
Bài II : Nói về CÔNG.
Bài III : Nói về THƯƠNG.
Bài IV : Nói về SĨ.
Bài V : Nói về NGƯ.
Bài VI : Nói về TIỀU.
Tới đây, Đức Lý ngưng lại.
Như vậy, còn thiếu : CANH và MỤC
Ngày 26-8-1927 (âl 29-7-Đinh Mão).
NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG
DÒNG NƯỚC BÍCH
Dòng nước bích tiếng cầm đêm nguyệt,
Vui hứng nhìn nước biếc non xanh.
Trối ai danh lợi giựt giành,
Giựt giành rốt cuộc tan tành đỉnh chung.
Mờ mệt khách lao lung buộc trói,
Nào mấy ai khoe giỏi khoe khôn.
Kiếp trần bước những bôn chôn,
Bóng quang âm đã dập dồn tuổi cao.
Nhìn sự nghiệp chưa bao nhiêu thỏa,
Đường thế còn danh giá ngoài khơi.
Mảng lo của vốn đồng lời,
Vốn lời chưa mãn phủi rồi tay không.
Kìa một gánh tang bồng mang nặng,
Nước nhà xưa vốn chẳng lo âu.
Nước non cảnh cũ đeo sầu,
Non phơi đảnh bạc, nước rầu mặt nhăn.
Nhăn vì nỗi thuyền xưa lạc bến,
Bạc vì cơn tang biến thương qua.
Qua bao nhiêu bóng ác tà,
Tà gương chí sĩ nợ nhà còn mang.
Lằn thân ái sương tan buổi sớm,
Giấc mộng hồn chưa dợm tỉnh hồn.
Chờ cho nước lặng đến chơn,
Chơn mau khó thoát mấy cơn bão bùng.
Sầu ngoảnh lại rừng thung gió thoảng,
Máu anh phong chảy cạn mạch hồng.
Ngày trời trưa sớm thong dong,
Để chơn rửa sạch tấc lòng đắng cay.
Mặc trần thế đọa đày kiếp sống,
Tạng mặt nhìn càng ngóng càng đau.
Điểm tang dấu tuyết đượm màu,
Vầng trăng sân trước soi làu khổ xưa.
Dòm lại nỗi nắng mưa sự thế,
Cảm giống nòi giữa bể sóng xao.
Ướm toan mượn giọt máu đào,
Nhành dương rưới tắt nhọc lao khổ mình.
Ngặt còn bóng trời Nam chiếu sáng,
Vận mạng chờ ác tản sương mơi.
Nắm tay bước tận thang Trời,
Lằn thương tâm níu đổi dời dây oan.
Bóng hồng lố cánh thoàn thơ thới,
Thiện niệm chờ cạn gởi nỗi đau.
Gương trong hạnh quí dồi dào,
Đem lòng thanh bạch sánh vào lửa binh.
Ai là trí phân minh lẽ chánh,
Văn chương đem làm cánh làm vi.
Ấy phương bảo thủ thành trì,
Đường khai đã sẵn gắng đi cho cùng.
Mong ngày thoát khỏi lao lung. . .
* * *
Đường đi nhắm không dài chẳng vắn,
Nhìn non tây ác lặn đã tà.
Cành dương lác đác sương sa,
Bóng quang âm ướm thoát qua biển trần.
Muốn trần lánh dữ khá trau lành,
Nguyệt rọi đường đi một bóng thinh.
Lướt đến non cao tìm động Thánh,
Chờ hơi quốc trổi Đạo chưa thành.
Chưa thành tua gắng chút công lao,
Lao lực đem nhau cảnh tịnh vào.
Một mối tương thân chừ nắm chặt,
Đạo nên thức tỉnh giấc chiêm bao.
Bao lần chuyển tiêu hao nhọc thế,
Bước cạnh tranh chưa dễ ai hơn.
Mạnh đè yếu thiệt chán chường,
Biển sâu khó biết lo lường giải oan.
Rừng thu bóng ngày tàn cụm trước,
Tiếng chuông chùa nguôi được nỗi đau.
Sưởi trong ánh nhựt rọi làu,
Nhằm hôm nhắn khách cội đào gió qua.
Lựa đèo tầm ngọc ẩn non Côn,
Triền đá cheo leo gắng bước dồn.
Ngoảnh khóm mây chiều lằn ác lặn,
Kêu nhau đổ dặm tạm cô thôn.
Thôn lân rải rác bóng người qua,
Hỏi lại chưa ai vẹn chữ hòa.
Thi, rượu, đờn, cờ, không kết bạn,
Quanh năm khuây lãng thế phui pha.
(TNCT. HH. 112-114)
THẤT NƯƠNG
Tình ái
Người tình ái lòng thương như biển,
Cả nước non hòa tiếng yêu đương.
Thương hơi gió lá nâng sương,
Thương chim đổ cội, thương tường che hoa.
Thương tiếng dế như hòa khóc bạn,
Thương hơi cây gió thoảng reo đờn.
Thương bầy thú nhảy đầu sơn,
Kết đôi chẳng hiểu tiếng hờn chia bâu.
Thương sông chảy như sầu nhăn mặt,
Thương gành khuya như bắc cầu Lam.
Thương con thuyền bá nương buồm,
Thương dòng nhi nữ chứa hờn Tương giang.
Thương gió lặng mây tan trời rạng,
Thương muôn sao nhấp nháng bóng khuya.
Thương mưa đổ giọt châu ria,
Cỏ cây nhờ nước chan bìa dầm xuâ
Thương đến chốn gọi rừng trước tử,
Chúa hiền xưa đặng giữ Đạo Đời.
Thương công ngư phủ dầm khơi,
Đò nhân rước khách lập đời an nguy.
Thương vạn vật cũng bì đồng loại,
Thương nhơn sanh chẳng mỏi lòng thương.
Thương người lạc bước lỡ đường,
Tìm nơi Cung Tốt, lạc đường Bích Cung.
Thương các Đấng anh phong vị chủng,
Thương những trang bỏ sống vì nhà.
Thương lùm mả ủ thân ma,
Cốt căn báo đáp sơn hà gầy nên.
Thương cửa Khổng chẳng bền mối Đạo,
Thương nhà văn khó bảo cơ văn.
Đòi phen nắm viết muốn quăng,
Đề danh chẳng kể đáng bằng ghi tên.
Thương những kẻ vì hiền khổ phận,
Cửa tang du khó lấn đầu hiên.
Thương người đeo thảm chác phiền,
Nỗi duyên lỡ dở hương nguyền lạnh tanh.
Thương những kẻ ôm giành cả nghĩa,
Thương cho người cửa tía cầu ô.
Bán thân vì chút từ cô,
Đem duyên mà đổi liễu bồ buôn may.
Thương nỗi bạn hằng ngày trông bóng,
Kiếm người thương nhẫng ngóng tin sương.
Tuyết khua bủa lạnh then giường,
Gối chăn chia nửa bước đường lạnh tanh.
Thương tiếng dế năm canh trổi giọng,
Tưởng như dường ướm gióng dây loan.
Thương ai thổn thức canh tràng,
Dở phòng phòng vắng, vén màn màn không.
Thương cho kẻ ngậm ngùi lỡ phận,
Tìm kiếm đôi lại vấn vương oan.
Thương người lánh tục tìm nhàn,
Trễ chơn mà bị phụ phàng tình duyên.
Thương người giữ chẳng bền danh tiết,
Vì thương nên khó biết trọng mình.
Thà cam chết sống với tình,
Chia tay chẳng chịu sớm đành phụ nhau.
Thương trời rạng lao xao cánh nhạn,
Đến đưa tin cửa Hán Chiêu Quân.
Thương người lạc bước phong trần,
Đem thân Hồ Hán bỏ phần tơ duyên.
Thương những kẻ chờ thuyền biển ái,
Bồng con thơ ngần ngại trông chồng.
Tấm trinh đối mặt non sông,
Đành đem thân đá hẹn cùng tuyết sương.
Thương mây tỏa như dường vẽ bóng,
Chức Nữ kia ngồi ngóng Ngưu Lang.
Trông vơi cánh thước nhộn nhàng,
Cầu Ô chẳng đến lập đàng hiệp đôi.
Thương cung Quảng Hằng ngồi ngó thế,
Đợi tin chàng Hậu Nghệ đến thăm.
Thương ai mến trộm nhớ thầm,
Lựa duyên chẳng chịu ôm cầm thuyền ai.
Thương Tô Huệ hằng ngày dệt gấm,
Dâng tâm trung vào tận đền rồng.
Thương người chịu nhục cùng chồng,
Dầu xa ân ái còn nồng nghĩa nhân.
THI :
Chiếc bá linh đinh thả giữa vời,
Thôi tìm bến Phạm đậu an nơi.
Vừng hồng đã lố thay màu đất,
Phận bạc đành cam đợi sắc Trời.
Trăng chiếu cội tùng trăng lổ đổ,
Tuyết đeo cành tử tuyết trong ngời.
Sự đời đã thế thôi đành thế,
Dâu bể đòi phen cũng đổi dời.
Túy Sơn Vân Mộng
Năm Long Đức thứ tư,
Tiết Trung Thu tháng tám,
Quế tử hương đưa muôn dặm,
Hòe huê sắc trổ đòi ngàn.
Trăng trăng bạc, gió gió vàng, lẻo lẻo một bầu bạch bích.
Trời trời xanh, nước nước biếc, làu làu một khóm pha ly.
Tám cảnh vầy mở bức bình phong,
Bốn cõi khắp xây nền vân thủy.
Ta khi ấy : Thôi chầu Thiên sứ,
Rảnh việc công sai.
Thinh thinh một chiếc thuyền lan, noi dòng Xích bích,
Nhẹ nhẹ đôi con chèo quế, dực bến Thương Lang.
Trải hang Nghê qua cửa Thần Phù,
Dựa bãi Hạc tới chùa Non Nước.
Nọ non Tiên, nầy cảnh Phật, những ngỡ tòa tinh đẩu đưa về.
Kìa quán gió, ấy cầu mây, chẳng khác chốn Bồng Lai đưa lại.
Phới phở lòng son dễ hứng,
Bâng khuâng dạ ngọc khôn cầm.
Ta bấy chừ : Ghé bến liễu đậu thuyền,
Dõi gành hoa chơi bộ.
Vén xiêm nghê, cài mão én, xênh xang một quạt một con đồng,
Nâng bóng ác, vận chăn lừa, lẻo đẻo đôi hầu đôi đứa trẻ.
Dìu dắt qua cầu Cửu Cấp,
Lần hồi tới cửa Tam quan.
Ngoài vách thưa, đọc đọc ngâm ngâm,
Trong am tự, trai trai giới giới.
Quến rủ đôi ba thầy tụng, rập rềnh tiếng quyển rập tiếng tiêu,
Trù trì năm bảy ông sư, thù tạc chén thung đưa chén cúc.
Dăn díu tiệc hầu mãn một,
Lần lừa canh đã sang ba.
Mảng vui say khách thảy về nhà,
Riêng lặng lẽ mình ta ngồi đấy.
Những mảng quến trăng làm bạn, xa trông năm thức tầng vân,
Thày lay mượn gió đưa duyên, xảy thấy một trang yểu điệu.
Rỡ rỡ sen đưa gót ngọc,
Dịu dàng tay hé rèm châu.
Tóc làu làu mây Sở mấy từng,
Quần dợn dợn sóng Tương đôi lớp.
Mặt hoa ái ngại dường Hớn Tiên Nương tách dặm xuống lầu Tây,
Mày liễu ủ ê tợ Đường Minh Phi đeo sầu về ải Bắc.
Sau lưng dõi đôi hầu thiếu nữ,
Trước mặt bưng một hộp kỳ nam.
Khoan khoan noi thềm quế bước vào,thưa rằng thiếp đến chầu quântử
Rón rén dựa lan can ngồi xuống, hỏi sao chàng nỡ phụ cố nhơn.
Ta khi ấy : Ngập ngừng như tỉnh như say,
Ngơ ngẩn nửa mừng nửa sợ.
Lã chã giọt châu sa trước mặt, nào ngờ bình thủy duyên xưa,
Nhặt khoan tiếng ngọc thoảng bên tai,mới biết tàokhang nghĩa cũ.
Mặt nhìn mặt trăm chiều, sầu tuôn lã chã,
Tay cầm tay mấy nỗi, thảm lụy ngập ngừng.
Chừ lâu ta mới hỏi chừng,
Sau trước nàng bèn bày tỏ.
Nàng mới thưa rằng :
Thiếp hổ thân bồ liễu,
Ngày dựa cửa trâm anh.
Vâng ngọc âm từ chốn Thiên đình,
Xuống hạ giới làm con Tướng quốc.
Tơ đỏ nhờ tay Nguyệt Lão,
Cửa vàng trộm sánh Lang quân.
Nghĩa keo sơn thoạt bén thoạt ưa,
Duyên kim cải càng quen càng thắm.
Tiếng cầm xen tiếng sắt, phao tuông đêm hạ giấc hòa phong,
Mùi xạ bén mùi hương, đầm ấm ngày xuân hơi thoại võ.
Đã trót vàng trao ngọc gởi,
Lại dầm biển ái nguồn ân.
Kề hàng trước, dựa hàng mai, những ước trăm năm thêm có lẻ,
Gối cội đào, chen cội quế, để thề chín nguyện vẹn và mười.
Trước là sửa trấp đẹp duyên chàng,
Sau nữa nâng khăn an phận thiếp.
Những tưởng gió cu còn đợi,
Nào hay máy tạo khôn ngừa.
Duyên mới vừa thỏ bạc ngang thềm,
Kể đã đặng năm năm ân ái.
Điềm phúc ứng dê xanh qua cửa,
Bỗng rẽ phân hai ngả Sâm Thương.
Hạc về huê biểu tủi ngùi ngùi,
Nhạn lại hoành dương trông thẳm thẳm.
Thiếp từ khi ấy : Về cung Nữ Tú,
Phụng sự Thiên Tào.
Sớm trông mây tối trông mưa, phưởng phất non Vu hồn Thần nữ,
Xuống khe rồng lên đảnh hạc,mơ màng cung nguyệt bóng Hằng Nga.
Thân tuy đà về chốn Tiên đài,
Lòng chưa ắt khuây nơi trần thế.
Ngảnh lại Tử Liêm nền đất cũ, sao dời vật đổi, tưởng cù lao khôn xiết nỗi thở than,
Trông về Thanh Hóa chốn quê chàng, biển rộng non cao, nghĩ ân ái lại càng thêm thảm thiết.
Khoăn khoái năm canh quyên nhớ cõi,
Bơ vơ ngàn dặm cú trông chừng.
Mong tầm Tiên học phép huờn hồn, song sợ học
phép mầu, Tiên chẳng bảo,
Muốn bạch Phật hỏi phương hiện thế, lại e
phương cấm, Phật không truyền.
Cậy gió, hềm dì gió đảo điên,
Mượn trăng, e ả trăng xao lãng.
Tin đồng sợ thầy đồng tráo chác,
Nhắm cốt e mụ cốt mơ màng.
Bởi rứa nên :
Hai chữ tương tư giữ dạ kính ghi dòng nước bích,
Một thiên trường hận rèn lòng thề tạc đảnh non xanh.
Thương thay : Hạnh uyển hoa tàn,
Diêu Trì tuyết tán.
Mã trục Tây Hồ hà nhựt phản ?
Kình dư Đông Hải kỷ thời lai ?
Nay gặp chàng thoạt đến chốn nầy,
Đặng cho thiếp thở than duyên cũ.
Thôi thôi : Xin nhớ mấy lời tâm sự,
Kính đưa hai chữ bình yên.
Ngậm ngùi tả bức huê tiên, bốn lạy giã từ trần thế,
Lã chã đôi hàng lụy ngọc, chín trùng trở lại Tiên đô.
Ta khi ấy : Chùa mây dùn thẳng,
Quán cát ngẩn ngơ.
Mở cửa toan ngồi đợi,
Ra sân lại đứng chờ.
Mái nọ non xanh, trăng bạc gác đầu hiên vặc vặc,
Bên kia cửa lục, chuông vàng soi mặt nước chinh chinh.
Mới biết là :
Động phủ hội tam sanh,
Huỳnh lương thành nhứt mộng.
Máy Trời Đất không không có có,
Đạo vợ chồng ái ái ân ân.
Than ôi !
Mộng huyễn bào ảnh đồ vi thị xuân,
Không sắc sắc không hà tu thậm dã.
Tuy là rẽ âm dương đôi ngả,
Cũng chẳng qua thành kỉnh một lòng.
Tử như sanh, vong như tồn, lòng kỉnh thành hữu cảm tắc thông,
Sanh như ký, tử như qui, tâm ngưỡng vọng hữu cầu tắc ứng.
Bèn đem rượu cúc rót ba tầng,
Rắp mượn bút huê đề nhứt luật.
Nguyễn Du
giáng cơ đề bút.
HÃY CẨN NGÔN VỚI CÁC ĐẤNG
Một hôm, một số Chức sắc đang ngồi uống trà luận đạo lý, bỗng có một ông nói : Không hiểu Bà Hớn Tiên Nương và Đường Minh Phi đẹp thế nào mà Đức Nguyễn Du trong Túy Sơn Vân Mộng ca tụng quá xá. Người gì mà :
. Mặt hoa ái ngại dường Hớn Tiên Nương tách dặm xuống lầu Tây,
. Mày liễu ủ ê tợ Đường Minh Phi đeo sầu về ải Bắc.
Sao không nói đẹp như Mỹ Ngọc mới phải lẽ
(sự thật ông chẳng những không đẹp trai mà còn ốm yếu lỏng thỏng).
Tối đêm đó có đàn cơ, Bát Nương về nói :
- Em xin sửa hai câu thi của Nguyễn Du lại như sau :
. Mặt yêu vằn vện dường Tiêu Lực Sĩ le lưỡi trấn Tây phương,
. Mày chằn nhăn nhíu tợ Quỉ Dạ Xoa đẩy xe vào Âm phủ.
Chừng ấy, ông Mỹ Ngọc mới phục tài chơi văn của Bát Nương
và hứa từ nay không dám xúc phạm đến Bà nữa.
(Trích Bán Nguyệt san Thông Tin, Xuân Nhâm Tý 1972 trang 42)
Ngày 7-1-1928 (âl 15-12-Đinh Mão).
Đức Lý Giáo Tông tặng Bà Giáo Hữu Hương Lựu :
THI :
Thấm thoát ngày xuân xế bóng thiều,
Đường trần vay quả đã bao nhiêu.
Oằn sương liễu đượm cành hoa sớm,
Đổ cạnh nhàn đưa ngọn gió chiều.
Gội đức nhờ khi lằn bụi sạch,
Trau nhân chờ buổi mối căn tiêu.
Rừng tòng dìu dắt đi tìm chốn,
Khổ hạnh mai sau cũng đáng liều.
(TNCT. TTT. 863)
Ngày 2-4-1931 (âl 15-2-Tân Mùi).
LỤC NƯƠNG

Nương huệ kiếm đoạn vòng oan nghiệt,
Thủ Thanh long đặng diệt tà tinh.
Thuyết đàn đã trổi thinh danh,
Thổi loa giục thức chúng sanh giấc nồng.
Đại Đạo mở Trời đông cứu thế,
Nắm tay nhau đoàn thể dắt dìu.
Tây đoài ác xế chín chiều,
Rừng hoang lạc bước ắt nhiều thú hung.
Nhìn Thiên Nhãn Huyền Khung Thượng Đế,
Mặc Đạo y dụng kế độ đời.
Tam Kỳ tự chu û là Trời,
Diệu huyền giáng bút để lời dạy khuyên.
Khá xem lấy tích Tiên sử Phật,
Trải thân cho gió dập mưa dồi.
Biển trần mặc sức sóng nhồi,
Từ thuyền tuông lướt giữa đời cứu dân.
Quan Thánh Đế Huỳnh cân dẹp giặc,
Trừ nịnh tà gian tặc giúp đời,
Xuân Thu bỉnh chúc nước người,
Giữ tròn nhơn nghĩa muôn đời sử nêu.
Lục Nương chị ngựa bêu cứu nước,
Quân nghịch thù mua được thiêu thân.
Cũng vì thương nước thương dân,
Cầm binh lướt trận tấm thân sá gì.
Em lựa phải hờn chi tiếng quở,
Lo tìm phương ăn ở vừa người.
Vàng cao nào sợ lửa vùi,
Lửa cao đem thử vàng mười đẹp xinh.
Chị đến tỏ thiệt tình em rõ,
Luật Thiên điều mắc mỏ lắm thay !
Tùy lòng cơ tạo đổi xây,
Dùng phương thử thách dở hay mất còn.
Cơn bão tố thuyền con thủ phận,
Để chờ cơn tan trận phong ba.
Nương thuyền Bát Nhã vượt qua,
Biển êm sóng tạnh mới ra giữa dòng.
Cơn gió vụt thuyền bong hải ngoại,
Phải lẹ tay bịn lấy dây lèo.
Giữ gìn tay lái tay chèo,
Giông to gió giật thân bèo sóng xao.
Chịu xuống thấp trồi cao mặt sóng,
Thương thân bèo bợn đóng rêu bao.
Nhọc nhằn thân chịu sóng xao,
Ngửa nghiêng vì nước, lao đao vì Trời.
Em khá nghiệm những lời chị tỏ,
Xét cho cùng hiểu rõ thi hành.
Chị thương em lắm nhọc nhằn,
Thấy thân em khổ chẳng đành làm thinh.
Em muốn đặng thân vinh Cực Lạc,
Phải chịu cơn gió tạt sương lồng.
Quản chi đông lạnh thu nồng,
Gìn tròn trách nhậm, đảo Bồng sau chung.
Cây muốn tịnh nhành rung vì gió,
Trăng ánh mờ mất tỏ vì mây.
Trái oan buộc chặt vì dây,
Cũng vì phàm thể nhục thây giục người.
Làm sao thế đừng cười chẳng thị,
Làm sao cho kẻ vị người kiêng.
Làm sao nêu đặng bảng Tiên,
Làm sao Bạch Ngọc triều Thiên đặng chầu.
Làm sao cả đâu đâu tôn tặng,
Làm sao cho người đặng yêu thương,
Làm sao rõ mặt hiền lương,
Làm sao thoát khỏi tai ương cõi trần.
Khuyên em phải thuận vâng chiều lụy,
Khuyên em lo đoạt vị tranh ngôi.
Khuyên em bền chí chớ thôi,
Khuyên em khá biết Ngũ Lôi chẳng vì.
BÁT NƯƠNG tiếp :
Khuyên em biết thời kỳ chuyển pháp,
Khuyên em an chịu áp chịu rầy.
Khuyên em trọng Đạo thương Thầy,
Khuyên em trì chí có ngày rảnh rang.
Khuyên em cực chớ than khổ nhọc,
Chuyển pháp mầu đặng lọc lòng người.
Khổ thân em cũng tươi cười,
Chi chi xin nhớ hơn mười năm tu.
Khuyên lập chí trượng phu Hàn Tín,
Khuyên em gìn tâm nhịn là hơn.
Dầu cho gió kép mưa đơn,
Khuyên em gắng chịu trong cơn dãi dầu.
Khuyên em nhớ những bầu tâm sự,
Khuyên em gìn hai chữ từ bi.
Khuyên em bước tận trường thi,
Khuyên em dùng phép sợ chi tà thần.
Khuyên em biết cây cân Tạo Hóa,
Chẳng chê nghèo, sang cả chẳng vì,
Lành thăng dữ đọa A Tỳ.
Thôi chị cho đôi câu kiếm hiểu.
Chị xin kiếu. Thăng.
Ngày 2-4-1931 (âl 15-2-Tân Mùi).
BÁT NƯƠNG DTC

Nỗi đeo đẳng đường đời ràng buộc,
Nỗi đưa chơn theo cuộc tang thương.
Nặng lo sự thế vô thường,
Nỗi thương quân tử đôi đường thê nhi.
Nỗi thương con giữ nghì mẫu tử,
Nỗi trên vai hai chữ tam tùng.
Nỗi lo cả giống dài dòng,
Nỗi thân chữ hiếu, nỗi chồng chữ duyên.
Nỗi lo Đạo cho tròn danh tiết,
Nỗi tề gia cho biết vẹn hằng.
Nỗi mình mỏng mảnh yếm khăn,
Khó khăn chẳng giúp cho chàng đỡ tay.
Nỗi mày liễu hình mai dục khách,
Hằng che duyên cho sạch bướm ong.
Một thân ở chốn tiêu phòng,
Nỗi gia phải chịu dưới chồng phận tôi.
Nỗi lo lắng cho rồi sự nghiệp,
Giúp chồng con theo kịp cùng người.
Mảng lo chỉ tối cơm mơi,
Mảnh duyên trả vẹn cho rồi thân danh.
Nào có tưởng thư anh một thể,
Sửa đời hay nào kể gái trai.
Để lời nhắn gái anh tài . . . . .
THĂNG.
Năm 1931 (Tân Mùi).
NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN

Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch,
Cõi trần may nhờ khách đức dày.
Mùi hương sen Phật đã bay,
Từ bên Đông Á phô bày Tây Âu.
Nước hằng sống rửa bầu thế sự,
Khiến nguyên nhân đổi dữ theo lành.
Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,
Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.
Kẻ vì mị đoái hoài giả Đạo,
Kẻ hay tin quái giáo gây trò.
Nguyên nhân lỡ bước ai lo,
Đon đường Cực Lạc đưa đò mê tân.
Khá hiểu rõ Thiền Lâm cho chóng,
Các nguyên nhân trông ngóng bấy lâu.
Biết thân lại đợi ai cầu,
TÁI CẦU : LỤC NƯƠNG tiếp :
Cầm gươm thần huệ xây lầu nguyệt quang.
Dục thế tục an nhàn lấy phận,
Cửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan.
Để chân vào cõi Niết Bàn,
Thoát vòng luân chuyển may đàng tầm duyên.
Tu đặng phép nhà Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo lẽ dối đời.
Sa môn chánh pháp đổi dời,
Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.
Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng hoàn vong,
Bớt điều hồ mị nhọc lòng phạn hương.
Bớt những lẽ người đương mê tín,
Nhập Tịnh gia cậy lịnh Thích Ca.
Bớt điều làm sãi bó ma,
Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.
Bớt những lẽ giựt giành bái phước,
Lấy Vu Lan đặng được ấm no.
Bớt kinh bớt xá dâng thơ,
Mã môn con hát giả đò giải khiên.
Bớt cậy Phật lập quyền Địa Ngục,
Bớt đồ mưu lấy phục Di - Đà.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỉ tăng.
Thái Thơ Thanh,
Anh khá kiếm lời răn của Phật,
Lấy từ bi dìu dắt sa môn.
Chư tăng như xác không hồn,
Lấy câu cứu khổ làm môn độ đời.
Anh khá mở cho rồi Cực Lạc,
Lập đường tu cho các chư sơn.
Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,
Đường tu cửa Phật may huờn như xưa.
Em nói rõ cho vừa Anh hiểu,
Bác Thiền Lâm, tùng kiểu Tam Kỳ.
Phép mầu hai chữ Từ Bi.
THĂNG.
Ngày 19-9-1933 (âl 30-7-Quí Dậu).
HỒ XUÂN HƯƠNG

Em chào các Ngài.
Bát Nương dặn Em cho hay rằng không đến đặng vì đã trót mấy ngày vào
hộ Lê Tôn Quân cùng Ngạn Sơn, nên trễ về chầu Diêu Trì một buổi.
Em xin tỏ hay rằng vô hại, cứ an lòng.
Nghe Em :
THI :
BIỂN NAM HẢI
Biển Nam Hải thuyền Tiên đưa khách,
Động Bồng Lai phủi sạch phong trần.
Con buồm thẳng cánh đài vân,
Nước non hứng đặng một lần thanh xuân.
Bước thơ sanh đã gần cõi Thánh,
Vẹt gai chông đặng lánh bụi hồng.
Kìa đường giải khổ mênh mông,
Cậy cây huệ kiếm đoạn vòng gia nô.
Lấy son sắc điểm tô xã tắc,
Mượn trượng phu vẽ mặt sơn hà.
Bóng trời soi nụ đào hoa,
Thơm tho quốc túy, điều hòa Việt phong.
Bảo tồn giống Lạc Long chuyển thế,
Ánh sao Khuê đã xế sân rồng.
Ngọc lìa Hiệp Phố hồi đông,
Báu xưa huờn trả con Rồng cháu Tiên.
Đừng ngần ngại cửa thiền sấm chớp,
Giữ nghĩa nhân đặng hợp giống nòi.
Sá chi những mặt tôi đòi,
Mua vinh chẳng thẹn tiếng đời thị phi.
Cửa ngục thất cũng bì lầu các,
Hổ nhục hay gội mát anh hùng.
Đã toan lãnh phận kiếm cung,
Đường tên mũi đạn để dùng bia danh.
Hễ tướng soái, chiến tranh là nghiệp,
Đạo đức sao cho hiệp Thiên đài.
Miệng tài nào ví tài hay,
Giục roi Lữ Vọng, cổi hài Trương Lương.
Diệt mê tín, mở đường chơn thật,
Lấy Thánh tâm đặng cất Cao Đài.
Trảm quỉ khí, sát tà oai,
Huơi đao Quan Võ, tế bài Vương Quân.
Tuy nền Đạo mấy lần nghiêng sụp,
Bác Nhã còn ẩn núp bến trần.
Ba đào qua, lố bóng ngân,
Toàn cầu cả thấy nhơn quần đắp xây.
Mới tám thu bao chầy mà vội,
Đạo huyền linh sớm tối cũng thành,
Đêm chầy nghe đã tàn canh,
Vừng đông tin nhắn rất lành tự do.
Lâu cuối năm, chầy cho đôi tháng,
Trông Bắc phương thấy dạng cứu tinh.
Rồi mong thế giới hòa bình,
Ngưu giang lặng sóng, Hà thành khói tan.
Chừng ấy mới an nhàn Nam Việt,
Mới lo toan trả nghiệt đền oan.
Kính hiền ngõ, trị bạo tàn. . .
Hồ Xuân Hương
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Lòng thành kỉnh khẩn cầu vọng bái,
Biết các con phận gái chưa an.
Thành tâm, MẸ phải chứng đàn,
Canh khuya dạy bảo con toàn thủy chung.
Vì thân gái không cùng vô phước,
Mắc tội xưa chẳng được thảnh thơi,
Xuống trần làm máy luân hồi,
Ăn cay nuốt đắng trả rồi nợ duyên.
Mấy khi gặp Chơn truyền xuống thế,
MẸ mới xin Ngọc Đế xuống truyền.
Xuống trần độ kẻ tâm duyên,
Thiên đường trở lại thoát miền gai chông.
Nhìn thấy trẻ trong vòng lao lý,
Muốn các con một ý một lòng.
Đừng ham mua bưởi bán bòng,
Nghĩa tình em chị đem lòng ghen tương.
Tình chồng vợ cang thường gây mối,
Phải mến yêu sớm tối có nhau,
Đừng mong cậy chỗ sang giàu,
Khuyên đừng so sánh vàng thau phụ tình.
Sách có câu : Phu vinh thê ấm,
Lại có câu : Tu thắng ngô gia.
Xử sao trên thuận dưới hòa,
Xướng tùy trọn đạo gần xa tỏ tường.
Xa những kẻ buôn hương bán phấn,
Ỷ chồng thương xô lấn dọc ngang.
Dầu chồng sanh thói lăng loàn,
Thay đen đổi trắng làm đàng mây mưa.
Noi tiết phụ đời xưa thanh sử,
Sách có câu : Hiền nữ kỉnh phu.
Gái nên tiết vẹn ngàn thu,
Dữ hung sau bị mưa mù sương sa.
Nhìn thấy trẻ chan hòa giọt lệ,
Bởi quá thương con trẻ chẳng lo.
Chẳng lo sợ chẳng gặp đò,
Ráng làm sao đặng khỏi lò dương gian.
Chị với em hiệp đàng chung sức,
Yêu mến nhau cho được thấm duyên.
Chị đau em luống than phiền,
Em dầu đau khổ chị liền xốn xang.
Người cách mặt đượm tràn nước mắt,
Vắng chị em khá nhắc khá thương.
Thương nhau trong cảnh đoạn trường,
Chừng nào đến chốn Thiên đường mới yên.
Cuộc thương hải tang điền thấy khổ,
Khắp bốn phương nhiều chỗ họa tai.
Thần Tiên xem thấy châu mày,
Đói cơm ai giúp, thi hài ai chôn.
Người vô phước linh hồn đâu được,
Chốn Tây phương hưởng phước Thiên Thai.
Con ôi ! Giữ da ï nhớ hoài,
Giã con ở lại, Thiên đài MẸ lui.
THĂNG
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Mặt trời lố mọc nhành dương,
Mưa sa lác đác mùi hương nực nồng.
Thấy con trần thế có lòng,
Thành tâm cầu khẩn MẸ hồng vãng lai.
Dạy con để dạ nhớ hoài,
Mai sau về chốn Thiên đài chung vui.
Hễ con biết Đạo biết mùi,
Biết trau sửa tánh biết giồi nết na.
Biết con là phận đàn bà,
Biết lời ăn nói thiệt thà hiền lương.
Biết dùng dưa muối rau tương,
Biết lo tụng niệm, biết đường tu thân.
Chớ nên quyến luyến hồng trần,
Chớ nên tham phú phụ bần rẽ hai.
Chớ cho tình lợt duyên phai,
Chớ vong nghĩa cũ, chớ hai tấm lòng.
Có chồng trọn nghĩa cùng chồng,
Đắng cay phải chịu mặn nồng phải cam.
Làm sao phải gái nhà Nam,
Phải gìn đạo đức, phải ham tu hành.
Phải lo hai chữ sanh thành,
Phải thương cha mẹ nhọc nhành buổi xưa.
Phải cần sớm tối cùng trưa,
Phải lo tu niệm quê xưa đặng về.
Hồng trần cõi tạm chớ mê,
Sao bằng Tiên cảnh là quê hương mình.
Thấy con có chí đắc thành,
Cho nên MEï phải nhọc nhành vì con.
Dầu cho biển cạn non mòn,
Mấy lời MẸ dặn giữ tròn chớ sai.
Giã con ở lại trần ai,
MẸ về Tiên cảnh Bồng Lai hưởng nhàn.
THĂNG.
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Treo đai ngọc đền vàng Long Hội,
Ớ con hiền bước vội đài sen.
Con ôi ! Đây MẸ đốt đèn,
Gắng đi tận đến bệ tiền Trời ban.
Người làm việc gian nan lắm nỗi,
Người thảo ngay sớm tối khổ đau.
Ma vương chen lấn Đạo Cao,
Đốt đèn trí huệ, đừng nao tấc lòng.
Nhớ hai chữ đại đồng nơi dạ,
Rằng thệ đường một ngả không hai.
Quyết đi tận đến kỳ khai,
Vào trường Long Hội gặp ngày định phân.
Con dầu gặp trăm lần cay đắng,
Nguyện với Thầy dìu dẫn giùm con.
Chẳng cho đạo đức hao mòn,
Chẳng cho mực lộn với son đổi màu.
Trống đã giục con nào lơi dạ,
Thúc hối mau bươn bả kịp kỳ.
Bóng đèn dẫn đến trường thi,
Lẽ nào con lại tách đi về đời.
Tay rạch đất con ôi trẻ nhớ,
Ngước mặt lên phú có cao xanh.
Con ghi nơi dạ làm lành,
Dốc lòng đoạt đặng bảng danh đại đồng.
Nay con nắm ấn rồng Thượng Phụ,
Ngậm phù linh đặng giữ lòng con.
Trăm năm con cứ giữ tròn,
Nếu con bội tín, thân con tan tành.
Nhớ Mẹ già cung xanh đợi trẻ,
Tả tâm thơ thỏ thẻ bên con.
Bài nầy MẸ chép bút son,
Để làm kỷ niệm cho con học đòi.
Gặp cảnh khổ cho con bớt khổ,
Dầu lao tâm ấy số tiền căn.
Lời Thầy đã có dặn rằng,
Hữu chung hữu thủy đạo hằng đừng sai.
Lòng con nguyện Cao Đài gắng sức,
Diệt khảo lòng nắn đúc chí con.
Ấy là bài học để lòng,
Gặp khi nghịch cảnh long đong con phòng.
Hễ quên MẸ, muốn trông thấy MẸ,
Ngâm bài nầy có lẽ khuyên lòng.
Dặn con nhớ giống nhớ dòng,
Nhớ cùng bạn đạo nhớ trong cảnh buồn.
Tình anh chị thịt xương một loại,
Hễ thương Thầy thì phải mến nhau.
Biết rằng không phải rún nhau,
Mà Thầy đem lại đổi trao mối tình.
Con thương MẸ con nhìn lấy nước,
Ắt lòng con phải nhớ giống nòi.
Nhớ rằng thảo chúa ngay tôi,
Khuông phò đạo đức phục ngôi đại đồng.
Họa chữ Tâm trên dòng Thiên Nhãn,
Cho Ma vương chẳng dám lăng loàn.
Để con đường thẳng bước sang,
Khỏi ai trì kéo đặng an tinh thần.
Ve dáo dác xa gần rủ bạn,
Nhớ chị em lai láng lòng trông.
Nữ Nam coi cũng một dòng,
Trên Thầy giáo hóa tấc lòng không sai.
Ơn đức ấy con nay chạm dạ,
Đặng con lo đền trả đức nầy.
Mãn rồi lại hiệp cùng Thầy,
Giáo Tông sắc mạng tại nầy năm châu.
Trời đã tối cung lầu trống đổ,
Các thú chim tìm tổ nghỉ ngơi.
Các con thì cũng đua bơi.
Kẻo khi trễ bước ắt thời tối tăm.
Nguyện chí một dốc tầm chơn lý,
Không sai lòng nãn chí người tu.
Dầu cho mưa nắng dãi dầu,
Thân con phú có trăng thu soi giùm.
Một lòng trọn thủy trọn chung,
Mực đen giấy trắng thệ lòng đừng sai.

______Hết______

Thư Viện 1      4   5